Không có gì là không thể làm và không có gì là không thể tồn tại

Tôi vốn dĩ là kẻ yêu những phép màu và sự kỳ diệu của thế giới, tôi tin vào nó một cách vô điều kiện ngay từ thuở lọt lòng, bỏ mặc những điều mà xã hội nói, gia đình nói, bạn bè nói, tôi tin vào nó như cách mà tôi tin vào sự tồn tại của mình – Chỉ là một chút trải lòng nhỏ từ cuộc đời kỳ diệu của tôi gửi tới những người bạn đáng mến đang đọc từng câu chữ này.

Ngay sau khi đọc được đoạn này trong cuốn sách “Đối thoại với Thượng Đế” tôi liền nghĩ ngay đến cái topic Tulpa xưa xửa này của mình, hãy cùng tôi đọc lại một đoạn văn kỳ diệu này nhé:

Tại sao con lại muốn chối bỏ Ngài hay con?

Vì các con sợ. Có lẽ những lời hứa của Ta quá tốt đẹp để có thể tin là sự thật. Vì thiếu niềm tin nên các con tự thu mình thành những linh hồn bám víu vào sợ hãi, sống trong lo sợ, đáng lẽ ra nên sống trong tình yêu, quyền năng và dung thứ. Các con sống trong sợ hãi và cái sợ lớn nhất của các con là lời hứa cao cả nhất của Ta có thể là sự lường gạt lớn nhất trên Trời đối với các con.

Các con cho rằng: Những lời hứa của Thượng Đế đem lại quyền năng và tình yêu cho các con: Phải là lời dối gạt giả tạo của ác quỷ. Các con nghĩ rằng Thượng Đế không bao giờ có lời hứa tốt như vậy, chỉ có ác quỷ mà thôi.

Ác quỷ dùng lời hứa tốt đẹp đó để lôi cuốn các con chối bỏ bản chất thật của Thượng Đế, một đấng thật đáng sợ, phê phán, ganh ghét, thù hận và hay trừng phạt. Tức các con đã gán những tính chất ác quỷ cho Thượng Đế để tự thuyết phục mình đừng chấp nhận những lời hứa tốt đẹp của đấng sang tạo, Thượng Đế của bản ngã. Đó là sức mạnh của sợ hãi.

Con đang cố gắng tống cái sợ hãi đi. Ngài có thể nêu lại cho con thêm về các Luật?

Luật thứ nhất: Các con có thể hiện hữu, làm hay có bất cứ gì các con có thể tưởng tượng được.

Luật thứ hai: Các con thu hút  những gì các con sợ.

Tại sao lại vậy? Tình cảm là một quyền năng nó thu hút. Cái mà các con sợ nhiều, các con sẽ kinh nghiệm nó. Một con vật, các con cho là ở một đời sống thấp hơn (nhưng con vật hành động liêm chính và tốt hơn con người) biết ngay tức khắc các con sợ nó.

Tình cảm là năng lực đang chuyển động. Khi các con chuyển động đủ năng lực, các con đã tạo ra vật chất. Nếu các con vận dụng năng lực đủ lâu theo một cách nào đó, các con sẽ tạo ra vật chất.

Tất cả các vị Thầy đều hiểu luật này. Đó là sự biến chất của toàn vũ trụ. Đó là bí quyết của đời sống. Tư tưởng là năng lực thanh tịnh. Tất cả tư tưởng các con đã có, đang có và sẽ có đều sáng tạo. Năng lực của tư tưởng không bao giờ chết đi. Nó rời khỏi các con và đi vào vũ trụ, tỏa ra mãi mãi. Một tư tưởng là vĩnh cửu. Tất cả những tư tưởng gặp nhau, chéo qua chéo lại tụ lại thành một khối năng lực phức tạp, thật đẹp và không bao giờ thay đổi. Những năng lực  giống nhau thu hút nhau, cứ như vậy năng lực đủ lớn để tạo thành vật chất tức là vật chất được thành hình từ năng lực thanh tịnh. Khi năng lực tạo thành vật chất sẽ ở trong thế giới thời gian rất lâu dài. Tuy nhiên, vật chất này sẽ bị phá vỡ nếu có những năng lực khác chống lại. Khi bị phá vỡ, vật chất sẽ phóng ra năng lực thô đã tạo thành nó. Như vậy, các con sẽ hiểu thêm câu: Khi có hai hay nhiều người họp lại Nhân Danh Ta, có công dụng như thế nào! Nếu cả xã hội cùng nghĩ theo một hướng sẽ tạo ra những việc kỳ lạ.

Giả như: Một xã hội luôn luôn sống trong sợ hãi sẽ không thể tránh được sản xuất ra được những hình thể có thể làm sợ hãi nhiều nhất. Cũng vậy, những cộng đồng hay giáo đoàn lớn thường có sức mạnh tạo ra những phép huyền diệu nhờ vào tư tưởng kết hợp còn gọi đồng cầu nguyện.

Cần nói thêm: Ngay cả những cá nhân, nếu tư tưởng của họ (cầu nguyện, hy vọng, ước mong, mộng mơ, sợ hãi) mạnh một cách kỳ lạ sẽ tạo ra những kết quả đó. Jesus đã từng làm những việc đó. Jesus hiểu cách vận dụng năng lực và vật chất, cách sắp xếp chúng lại, cách phân phối và kiểm soát chúng. Nhiều vị Thầy đã biết điều này. Các con cũng có thể biết điều này ngay bây giờ. Đó là cái biết mà Adam và Eva đã cùng tham dự.

[…]

Con vẫn không chắc là con theo kịp.

Hãy nghĩ thế này: Tiếng “Ta” là chìa khóa nó khởi động bộ máy sáng tạo. Hai tiếng “Ta Đây” có quyền năng vô cùng. Chúng là những lời nói của vũ trụ, những lệnh được ban ra. Như thế, bất cứ những chữ nào tiếp theo chữ “Ta” (nó kêu lại cái Ta đây vĩ đại) có hướng biểu thị trên thực tế thể chất. Vậy thì Ta muốn có thành công tạo ra các con muốn có thành công. Ta muốn tiền bạc tạo ra các con muốn tiền bạc. Nó không thể tạo ra gì khác bởi vì tư tưởng, lời nói là sáng tạo. Hành động cũng vậy. Nếu các con hành động theo lối các con muốn thành công về tiền bạc thì những tư tưởng, lời nói và hành động đều đồng lòng và các con chắc chắn có cái kinh nghiệm của cái muốn này. Có thấy không?

Có! Trời ơi! Nó diễn tiến thực tế như vậy sao?

Đương nhiên! Các con là những nhà sáng tạo đầy quyền năng. Tuy nhiên, nếu các con có một tư tưởng hay nói một lời chỉ một lần thôi chẳng hạn như: Trong khi nóng giận hoặc thất chí, các con thường có những tư tưởng hay lời nói: “Đồ chết tiệt!” hoặc “Cút vào địa ngục đi” v.v… Các con đừng lo lắng nhiều vì những tư tưởng hoặc lời nói này ít khi chuyển thành thực tế.

Tạ ơn Thượng Đế.

Không có gì. Nhưng nếu các con nhắc lại một tư tưởng hay một lời nói nhiều lần. Không phải một lần, hai lần mà là hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn lần…các con có thể tưởng tượng được cái quyền năng sáng tạo ở đó không? Một tư tưởng hay một lời nói phát ra, phát ra và phát ra trở thành đúng như vậy. Phát ra. Đó là đẩy ra. Nó trở thành hiện thực ở ngoài. Nó trở thành cái thực tế vật chất của các con.Ghê thật! Đó đúng là cái thường xảy ra.

Ghê thật!

 Các con thích ghê gớm, thích bi thảm. Có nghĩa tới khi nào các con không thích nữa, sẽ tới một địa điểm trong tiến hóa của các con sẽ không còn ưa bi thảm nữa, không còn ưa cái thảm kịch như các con đã sống. Đó là lúc mà các con quyết định tích cực chọn lựa thay đổi nó. Chỉ có điều các con không biết. Bây giờ các con muốn biết, muốn thay đổi thực tế của các con cần phải ngưng tư tưởng như vậy. Trong trường hợp này thay vì nghĩ “Ta muốn thành công” hãy nghĩ “Ta có thành công”.

[..]

Lúc các con tìm cách cư ngụ trong một thân thể thể chất mới ở Địa Cầu đây, cái thân thanh khí của các con (như một số trong các con gọi là vậy) hạ tầng rung động xuống, tự nó chậm lại từ nhịp rung nhanh tới mức không thể nhìn được nó, xuống một tốc độ, tốc độ này tạo ra khối lượng và vật chất.Cái vật chất này do tư tưởng thanh tịnh tạo ra, do hành động của trí tuệ, cái diện trí tuệ cao cả của hiện hữu, bộ ba của các con.

Cái vật chất này là sự đông đặc của triệu triệu tỷ những năng lượng khác nhau làm thành một khối lượng lớn, có thể được kiểm soát được bởi trí tuệ…. các con quả thật là người thông minh. Khi những đơn vị năng lượng nhỏ bé đã xài hết năng lượng của chúng, chúng bị loại ra bởi thân thể và trí tuệ tạo ra những đơn vị mới. Về điều này trí tuệ tạo ra từ một cái tư tưởng liên tục về Các Con Là Ai! Cái thân thanh khí bắt chộp tư tưởng (đây là một lối nói), hạ thấp nhịp rung của nhiều đơn vị hơn nữa (theo nghĩa kết tinh lại) và chúng trở thành thể chất, thể chất mới của các con. Theo lối đó, tất cả những tế bào nơi thân thể các con thay đổi cứ vài năm một lần. Nghĩa là các con không phải là cùng một người cách đây mấy năm.

Nếu các con nghĩ những tư tưởng đau ốm hay bệnh tật (hoặc liên tục giận dữ, thù hận và tiêu cực), thân thể sẽ chuyển những tư tưởng này thành những dạng thể chất. Người ta sẽ nhìn thấy cái hình thể tiêu cực, ốm yếu…. và sẽ hỏi: Chuyện gì đã xảy ra cho các con?

Linh hồn nắm toàn bộ cái bi kịch này diễn ra hằng năm tháng và vẫn luôn luôn nắm được Chân Lý về các con. Linh hồn không bao giờ quên cái mô hình, cái kế hoạch nguyên thủy, cái ý niệm đầu tiên, cái tư tưởng sáng tạo. Công việc của Linh Hồn nhắc lại cho các con nhớ lại Các Con Là Ai và rồi chọn Các con Ao Ước thành ai hiện nay. Theo cách này, cái chu kỳ sáng tạo và kinh nghiệm,quan niệm và thực hiện, biết và tăng trưởng vào cái vô tri, tiếp tục cả hiện nay và mãi mãi.

SỰ KHÁC NHAU GIỮA DEMON VÀ DAEMON.

Hai từ Demon và Daemon thường được sử dụng giống nhau và được xem là có ý nghĩa tương đồng. Nhưng sự thật là chúng có một sự khác biệt rất cụ thể mà nhiều người ko rành sẽ hay nhầm lẫn. Chúng ta sẽ cùng xem xét định nghĩa của 2 thuật ngữ “tưởng 1 mà 2” này nhé.

“Demon” là từ có nguồn gốc từ tiếng Latin “daemonnium”, có nghĩa là một Ác Linh hoặc Tinh thần Dữ (Evil Spirit) hoặc một con quỷ (Devil), một cư dân của Hoả ngục, một tinh linh kiểu Thuộc hạ, hạ cấp (Lesser Spirit). Demon thường được mô tả là có sừng, có đuôi, có đinh ba và khuôn mặt gớm guốc. Demon cũng được sử dụng theo nghĩa bóng để ám chỉ kẻ độc ác, một sự ám ảnh khó hiểu hoặc một điều gì đó có hại.

Có một sự thật thú vị là ở Úc và New Zealand, từ Demon được sử dụng như một thuật ngữ không chính thống cho cảnh sát – police. Demon còn đôi khi được sử dụng để mô tả sự ma mãnh hoặc một kỹ năng tuyệt vời.

Còn “Daemon” bắt nguồn từ một tín ngưỡng Hy Lạp cổ, là daimon. Trong tín ngưỡng ấy, Daemon là một thực thể tâm linh chênh vênh giữa loài người và thần linh, hay là hồn ma của một anh hùng tử trận. Daemons là các Thiện Tinh thần hoặc là các Tinh linh Bảo trợ (Helpful Spirit). Daemon tồn tại như một Thiên thần Hộ mệnh (Guardian Angel) hoặc một nguồn động lực nội tại (inner driving force).

Hãy nhớ rằng, Demon là một Ác Linh, Tinh thần Dữ, còn Daemon lại là một Thiện Tinh thần, hay Tinh linh Tốt.

Ngoài ra, theo tiểu thuyết gia Philip Pullman, Daemon còn là một biểu hiện vật lý của linh hồn con người dưới hình dạng của một loài vật (well, nghe có vẻ khá giống Animal Spirit nhỉ)

Cú,

Nguồn:Huyền Bí Học Việt Nam • Occultism Vietnam

Ngoài ra nếu bạn đang phân vân những bài viết bên trên kia liệu viết cho Demon hay Daemon, vậy thì tôi cũn gnêu quan điểm của mình luôn, rằng nó viết cho cả 2. Dù bản gốc chỉ đề cập đến Demon, nhưng theo cách nhìn nào đó Deamon, Demon hay ngay cả thiên thần và các vị thần đều là những thế lực vô hình – thứ sẽ kết nối với tâm trí / linh hồn chúng ta để đạt được một mục đích sống và ý nghĩa sống nào đó của họ. Ngoài ra theo cách viết trong các bài trước dường như cái thế lực được triệu hồi không mang nhiều sự tiêu cực và ham muốn vật chất, chúng chủ yếu như thể thiên về sự thành khẩn của tâm linh, vậy có thể không chính tác giả có thể cũng đang nhầm lẫ 1 chút về cách định nghĩa Demon của mình ?

Mỗi bài viết đều mang đến 1 kiến thức và bài học thú vị, không ai đúng, ko ai sai, hãy cứ tiếp tục đọc, tìm hiểu và kết nối những thông tin trong kho tàng tri thức nhỏ bé ẩn sâu dưới lớp vỏ của con người.

Lịch sử các chủng tộc trước con người

Câu chuyện khởi nguồn của chúng ta đều sẽ bắt đầu bằng sự phi vật chất có hai giả thiết được đề cập đến như này

I. THẦN LINH HAY GIỐNG LOÀI SIÊU VIỆT ?

Giai đoạn 1: Nhiều triệu năm về trước, do phần hồn cô đặc dần, trên trái đất xuất hiện nhưng sinh vật cao tới 60 mét và hơn thế nữa. Những người đó chưa đủ đặc và hoàn thiện, họ có thể đi xuyên tường và các chướng ngại vật khác. Thiên nhiên cây cối con vật cũng chưa được hình thành. Tuy vậy những người đó đã có bộ gen cơ sở cho phép họ tái tạo những người tựa như họ bằng cách đâm chồi và phân chia.

Những con người này sống tuân thủ quy luật của thế giới bên kia và liên hệ trực tiếp với Cõi kia. Học khó có thể thay đổi hay tác động vào những vật thể mang tính cô đặc hơn họ. Có thể gọi giai đoạn này là giai đoạn hài nhi của nhân loại.

Trong quá trình tiến hóa, thân thể họ cô đặc dần và nhỏ đi về kích thước, cô đặc hơn, có hình hài hơn như những bóng ma. Giống người này có một mắt, họ sinh sôi bằng cách đâm chồi và phân chia, có thể đi xuyên tường nhưng đã có thể làm vài công việc tác động vật lý lên môi trường xung quanh . Bởi vậy họ bắt đầu hoạt động tích cực hơn trong thế giới vật chất; lịch sử từ thời kỳ hài nhi loài người chuyển sang thời kỳ “ấu thơ”.

Giai đoạn 2: Giai đoạn văn minh Lemuria

Sau khi thân thể người giai đoạn 1 cô đặc hơn nữa, thì xuất hiện ngời Lemuri sơ kỳ, cao gần 20m, có hai mặt và bốn tay. Hai tay phía trước phực vụ hai con mắt nhìn trong thế giới vật thể, hai tay phía sau phục vụ cho con mắt nhìn trong thế giới bên kia, Người Lemuri sơ kỳ không còn khả năng đi xuyên vật thể, nhưng nhờ có 4 tay mà đã thực hiện được nhiều hoạt động trong cuộc sống vật chất hơn. Họ sử dụng hiệu quả năng lượng từ 2 thế giới vi tế và vật lý. Bộ gen của họ đã hoàn thiện tới mức họ bắt đầu phân chia thành đan ông và đàn bà, bắt đầu sinh con. Giả thiết cho rằng giai đoạn này gắn với giai đoạn thời kf khủng long đầu.

Quá trình cô đặc thể xác vẫn tiếp diễn, tầm vóc người Lemuri sơ kỳ nhỏ dần khoảng 10m. con mắt thứ ba ở đằng sau tụt vào khoang sọ, nhưng vẫn giữ chức năng cơ quan có thể sử dụng kiên kết với cõi bên kia. Cùng với đó hai tay sau phục vụ con mắt ấy cũng biến mất. Người Lemuria hậu kỳ sống nửa dưới nước nửa trên cạn, xuất hiện những cái mang nhỏ giúp họ có thể tồn tại dưới nước. Họ xây dựng các đô thị to lớn, có trình độn kỹ thuật cao, có nền khoa học hạng nhất, sử dụng nội năng để chữa bệnh. Tuổi thọ của họ là 1000 – 2000 năm và nhiều hơn thế. Thời kỳ này người Lemuri biết sử dựng toàn diện năng lượng của cả 2 thế giới, công nghệ của họ dựa chủ yếu vào sự hiểu biết của thế giới phi vật chất. Những người này có khả năng phi vật chất hóa và vật chất hóa các thiết bị, công cụ. Nhờ vào con mắt thứ ba nằm trong khoang sọ vẫn hoạt động trơn chu, họ nhận thông tin từ cõi bên kia, họ có khả năng nhận định vấn đề rất dễ dàng, sự tồn tại của họ nhằm sáng tạo, kết hợp, bổ sung thêm kiến thức cho nguồn thông tin ở thế giới tế vi.

Tuy nhiên trong lòng nền văn minh phát triển cao về tri thức này bắt đầu xuất hiện nạn sùng bái quyền lực, các kiến thức bị thay thế và sử dụng trong việc tìm kiếm quyền lực. Họ bắt đầu sản xuất vũ khí và chia bè phái dọa nạt lẫn nhau. Đó là sự tất yếu khi đã đạt đến đỉnh cao chưa từng thấy, thông thạo gần như hoàn hảo các quy luật hoạt động vũ trụ, họ cảm thấy mình toàn quyền đối với thiên nhiên, họ bắt đầu cho rằng mình là “Chúa” và bắt đầu sự tranh giành nhằm chiếm đoạt ngôi vị cao nhất.

Hệ quả của những cuộc chiến là vị trí các khách thể vũ trụ (hành tinh, thiên thạch,v..v..) thay đổi và dẫn đến thảm họa toàn cầu. Một phần người Lemuri sáng suốt nhận biết được tương lai của thảm họa đã nhập “quỹ gen nhân loại” hoặc đi xuyên lòng trái đất mang theo thiết bị cần thiết và tạo nên một vương quốc nhỏ dưới đó. Còn phần người vẫn đang mờ mắt trên mặt đất thì bị tiêu vong. Đồng thời sau những biến cố, khả năng thu nhận thông tin từ thế giới phi vật chất bị suy thoái một phần trong giống loài tiếp theo.

Trước khi xảy ra thảm họa rất lâu trong xã hội Lemuria đã bắt đầu sinh ra những người có tầm vóc nhỏ hơn và có diện mạo khác thường. Số lượng những người như vậy gia tăng dần ( cao 3 – 5 m) đó là những đại diện đầu tiên của chủng tộc tiếp theo, có lẽ họ đã được theo chân những người lemuri sáng suốt đi lánh nạn và sống sót sau thảm họa nhằm bảo tồn giống nòi

Giai đoạn 3: Giai đoạn văn minh Atlantic

Vì sinh ra trong lòng Lemuria, người Atlan gần như đều chỉ dựa dẫm vào những thành tựu tổ tiên mình để lại, hầu hết họ mất đi sự sáng tạo và khai phá dù cho họ vẫn còn một phần khả năng thu nhận thông tin từ thế giới bên kia, cũng như con mắt thứ ba vẫn hoạt động. Trong điều kiện phải một mình quay lại mặt đất để xoay sở và khai phá, văn minh Atlan phát triển chậm hơn hẳn. Bởi vậy một số người thông thái trong bộ phận Lemuri đã xuất hiện nhằm chỉ báo, hướng dẫn cuộc sống cho nền văn minh Atlantic. Những con người Lemuri hiếm hoi đó được tôn vinh như những thiên tử dẫn dẫn văn minh. Họ được hướng dẫn trước tiên là về tình yêu thương đồng cảm và sau đó mới tới các thành tựu phát triển hiện đại. Văn minh Atlantic dần dần trở về với “thời hoàng kim”. họ thông thạo thần giao cách cảm, tác động tâm thần lên lực hấp dẫn, nắm được sức mạnh của thần chú và các dạng năng lực khác của thế giới tế vi, họ xây dựng các thành phố cho mình, các máy bay vimana, đồn điền dưới nước.

Vào thời kỳ đó thiện và yêu thương là quy tắc sinh hoạt cơ bản của người Atlan. Con em chủng loài này không học hành ở các trường phổ thông, với sự phát triển nhất định của bộ não, chúng được hướng dẫn để sử dụng thông tin thu được ở thế giới tế vi. Kiến thức của văn minh Lemuria được thu vào thế giới bên kia phong phú tới mức người Atlan thấy rằng chưa cần phải vội vã nghiên cứu những cái mới khác, chỉ cần dùng lại thành tựu của Lemuria cũng đủ với họ rồi, điều đó đã dẫn đến thói “ăn không ngồi rồi” trong khoa học. Khi mà nền văn minh không chú trọng khoa học hay phát triển tri thức nữa thì việc nắm giữ quyền lực lại được thay thế vào đó. Atlantic lại bắt đầu đề cao quyền lực, một phần còn lại với sự tôn sùng cái thiện vẫn không thể đối đầu nổi với ham muốn quyền lực tiêu cực. Vết xe đổ lại một lần nữa xảy ra, trục trái đất một lần nữa đổi rời, trận đại hồng thủy nhấn chìm hầu hết toàn bộ trái đất trong thời gian tương đối dài, quét sạch mặt đất cũng như những cuộc chiến liên miên, chỉ còn hiếm hoi những vùng đất cao. Và những người Atlan may mắn là những người lựa chọn đúng địa điểm để di dời những địa điểm này có thể kể đến như : những vùng cao của lục địa Châu Phi, Hòn đảo ở khu vực Đại Tây Dương, Himalaya, Tây tạng, sa mạc Gôbi.

Cũng như thời Lemuria, tổ tiên của con người hiện nay sinh ra trong lòng Atlantic và được tồn tại di dời theo dòng người Atlan, vì sự khác biệt về vẻ ngoài cũng như nhận thức, một bộ phận con người và người Atlan gây chiến với nhau, con người hồi đó được cho là nhỏ bé và hiếu chiến. Một bộ phận khác lại sống với nhau rất hữu nghị ( người Ai cập cổ và người Atlan Hòn đảo ở khu vực Đại Tây Dương ) và trao đổi các kiến thức khoa học giúp đỡ lẫn nhau cho đến khi sao chổi chifon rơi xuống vùng Đại Tây Dương những hòn đảo đó chìm hẳn và nền văn minh Atlantic một lần nữa bị diệt vong. Những bộ phận người Atlan khác do sự tách biệt và đấu tranh cũng dần dà hóa hoang , ít người và những cuộc hôn nhân đồng huyết khiến họ cũng suy thoái dần.

Giai đoạn 4: Con người

 

Con người xuất hiện trong lòng văn minh Atlantic, họ có tầm vóc thấp hơn, không có màng giữa các ngón chân, mũi và bàn chân to bè. Những người này thích nghi với cuộc sống trên cạn hơn, vì thế có nhiều thuận lợi hơn sơ với người Atlan. Những người này năng động và có sức làm việc hơn, nhưng về mặt tâm linh lại thoái hóa kém phát triển (dù vậy tâm linh thời đó vẫn phát triển hơn so với người hiện đại ngày nay) So với người hiện đại hiện nay người thời đó cao khoảng 2 – 3m là những người khổng lồ, nhưng so với người Atlan thì vẫn khá nhỏ bé.

Sau khi sao chổi Chifon rơi xuống vùng Đại Tây Dương cách đây 11.000 năm trái đất chìm trong đêm tối bởi 1 lượng lớn khó bui macma v..v… tung vào tầng khí quyển thời gian được đề cập đến khoảng 1000 -2000 năm hoặc nhỏ hơn nhiều. Sau thảm họa đó trái đất ổn định dần. nhưng sự phát triển tiến bộ của xã hội luôn bị kìm hãm. Sau nỗ lực thoát khỏi giai đoạn thoái hóa do thảm họa, con người tiến hành phân chia rõ các vùng đất thành lãnh thổ, chiến tranh triền miên bởi đặc tính hung hãn của con người làm thành mẫu người lý tưởng là chiến binh bảo vệ hoặc chiến binh xâm lăng

II. GIẢ THIẾT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CẢM XÚC ? CHÚNG TA TIẾN LÊN HAY CHÚNG TA LÙI LẠI ?

Nhân loại đã có mặt từ khi trái đất được thành lập, nghĩa là hàng triệu năm trước nhưng lúc đó họ không mang thân xác như con người ngày nay. Vào lúc thành lập, trái đất là một khối lửa nóng bỏng và con người đầu tiên khi đó chỉ là những hình hài mong manh, có thể bay lơ lửng trong không gian, chứ chưa có một thể xác vật chất cụ thể nào. Vì thể xác mong manh như sương khói này, các yếu tố vật chất còn rất thô sơ nên họ chưa phát triển về các giác quan như người ngày nay mà chỉ mới phát triển về thính giác, có thể nghe được các âm thanh. Vì thân thể được cấu tạo bằng chất hoi nên họ không sợ lửa hay sức nóng mà có thể lướt đi trong biển lửa, hấp thụ các chất khí để nuôi thân và sunh sản bằng sự trực phân (thân thể tự động tách ra làm hai)
Trải qua hàng triệu năm, khối lửa nguội dần, biến thành quả đất. Sự thay đổi của quả đất từ khối nóng bỏng chuyển thành một khối rắn chắc với những đại dương và lục địa là một tiến trình sunh hóa hết sức đặc biệt. Các lục địa khi đó hình thái khác xa ngày nay và các sinh vật sống trên đó cũng có những hình thể đặc biệt thích hợp với trào lưu tiến hóa lúc đó. Các sinh vật trong chu kỳ này bắt đầu mang một thể xá vật chất khá rõ ràng hơn, có loài sống dưới nước, có loài sống trên cạn cà có loài bay trong không gian. Khi đó giống người thứ nhất đã hoàn tẩ cuộc tiến hóa trải qua chu kỳ thành, trụ, hoại, diệt nên hoàn toàn biến mất vì không còn thích hợp với hoàn cảnh khi đó nữa mà chuyển thành giống người thứ hai. Giống người này có một thể xác vật chất khá rõ dù chưa hoàn toàn. Thân thể của họ là một khối thịt với các giác quan thô thiển. Ngoài thính giác, họ phát triển thêm về xúc giác và khứu giác nên đã ý thức được phần nào về môi trường xung quanh. Họ sinh sống bằng cách hấp thụ các chất dinh dưỡng từ môi trường xung quanh,nhưng một số khác lại ăn thịt đồng loại, bám chặt vào thân thể họ rồi hút máu như loài đỉa ngày nay. Mặc dù họ vẫn sinh sản theo lối trực phân nhưng mầm mống phân chia giống đực và giống cái bắt đầu xuất hiện.
Trải qua nhiều triệu năm, vị trí các lục địa trên trái đất lại thay đổi qua các trận địa chấn và loài người sống trên đó cũng tiến hóa hơn xưa. Giống người thứ hai cũng hoàn tất chu kỳ tiến hóa và bước vào giai đoạn diệt vong để chuyển đổi thành giống người thứ ba. Đây là giống người có thể xác vật chất rất rõ rệt, hình thù to lớn, thô kệch, một thứ người khổng lồ so với loài người ngày nay. Đó là giống người Một mắt (cyclops) mà một vài truyền thuyết cổ xưa đã đề cập đến. Ngoài xúc giác,thính giác và khứu giác, họ bắt đầu phát triển về thị giác và vị giác. Trên đầu họ nổi lên hạch lớn giống như 1 con mắt, có thể ghi nhận ngoại cảnh 1 cách lờ mờ như sáng và tối chứ chưa ghi rõ được các hình ảnh hay màu sắc. Giác quan đặc biệt này giúp họ cảm nhận được các rung động của các cõi giới khác nên họ sở hữu những khả năng đặc biệt mà ngày nay người ta cho là phép lạ. Vì thể xác vật chất đã phát triển đầy đủ nên giống người thứ ba này có khuynh hướng hoàn toàn thiên về vậy chất, dục vọng và thường tìm khoái cảm qua nhu cầu ăn uống,kể cả việc ăn thịt lẫn nhau. Vào lúc đó trên mặt địa cầu có sáu lục địa to nhỏ không đều. Lục địa thứ nhất gọi là “Mu” hay “lemuria” (bao gồm châu Á và châu Úc) nên giống người thứ ba đó gọi là người Lemurian.

Sự tiến hóa của giống người Lemurian  rất đặc biệt. Thể xác họ chia thành hai phái nam  nữ nên họ có thể giao hợp mặc dù họ đẻ trứng chứ chưa sinh con. Tuy các giác quan chính đã phát triển nhưng trí óc của họ vẫn còn rất thô sơ nên sống bằng bản năng chứ chưa phát triển được trí thông minh. Nhờ các giác quan đặc biệt như con mắt trên trán, họ có thể sai khiến được vài loài cầm thú, di chuyển được các đồ vật trong thiên nhiên bằng tư tưởng thay vì chân tay. Người Lemuriam ăm thịt sống kể cả thịt đồng loại, nhưng đây là điều tự nhiên vì trình độ tiến hóa của họ chưa phát triển về tình cảm nên họ không biết gì về tình thương. Nền văn minh Lemurian chú trọng nhiều đến kiến trúc và những gì có tính vật chất. Họ xây nhà cửa bằng đá. Nhờ giác quan đặc biệt, họ có thể di chuyển được những tảng đá khổng lồ mà hiện nay với máy móc tối tân nhất, người ta vẫn chưa làm nổi. Vì sống hoàn toàn bằng bản năng nên người Lemurian rất tham lam, ganh ghét và ích kỷ. Lúc đầu, họ sống riêng lẻ, nhưng về sau tập hợp thành phe nhóm và luôn luôn tranh chấp lẫn nhau để giành quyền lợi. Một trong những dấu tích còn lại của người Lemurian là các pho tượng khổng lồ trên dảm Eastern tại Thái Bình Dương.

Thời đại của người Lemurian kéo dài cả trăm ngàn năm, từ khi họ sống trong các hang đá đến khi xây cất được nhà cửa, đường xá riêng. Ngoài việc di chuyển các tảng đá khổng lồ, họ còn sử dụng được các sức mạnh thiên nhiên như gây các trận mưa to gió lớn, làm thời tiết biến chuyển, nhưng về sau họ lạm dụng những quyền năng này vào những cuộc tranh chấp và đi ngược luật thiên nhiên. Vào cuối chu kỳ này, có những thiên tai ghê gớm xảy ra, các núi lửa đua nhau phun trào, gây ra những trận động đất kinh khủng, khiến lục địa Mu bị tan vỡ. Một phần chìm xuống biển, phần khác tan rã thành các đảo nhỏ rải rác trên Thái Bình Dương ngày nay. Một phần bị sức đẩy dội ngược lên, va chạm mãnh liệt cào các lục địa khác, tạo ra dãy Hy Mã Lạp Sơn. Vùng bờ biển của các lục địa Lemuria biến thành núi, vùng rừng tậm hoang vu biến thành sa mạc Gobi và phần khác tách rời ra, bị đẩy trôi xuống phía nam trở thành châu Úc ngày nay.

Sau giống người Lemurian là sự phát triển của giống người thứ tư tại lục địa Atlantis. Hình hài của người Atlantis phản ánh sự thay đổi từ to lớn, thô kệch thành nhỏ bé, linh hoạt và có hình dáng giống nhân loại ngày nay. Thay vì có một mắt nổi lên giữa trán như người Lemurian, người Atlantis có hau mắt và phát triển thị giác một cách hoàn hảo nên có thể phân biệt hình ảnh, màu sắc rõ ràng. (Giác quan trên trán của người Lemurian không cần thiết nữa, thụt vào trong đầu trở thành tuyến Tùng Quả ( Pineal gland). Ngoài năm giác quan chính đã phát triển, người Atlantis vẫn còn sử dụng được giác quan trên trán này nên họ có thể làm được nhiều việc mà ngày nay nhiều người cho là phi thường. Khi trước người Lemurian đã sử dụng nó để xây cất, kiến trúc nhả cửa một cách giản dị theo bản năng sinh tồn nhưng người Atlantis, nhờ bắt đầu phát triển về bộ óc hay trí thông minh, đã áp dụng khả năng này vào những kiến trúc tinh vi hơn để xây cất kim tự tháp. Họ cí thể xếp những tảng đá khổng lồ chồng chất lên nhau chứ không sử dụng đòn bẩy, dây kéo như các nhà khoa học ngày nay suy đoán.

(To be continued >> ) …

Bàn về bản chất thế giới

Có rất nhiều góc nhìn về vấ đề này mình sẽ dần dần tổng hợp để mọi người cùng xem xét về một góc nhìn khái quát nhất có thể.

Phần 1

Hãy bắt đầu bằng những nghiên cứu trong lịch sử ( sưu tầm của dịch giả Nguyễn Trần Quyết

Nhà vật lý học Albert Einstein đã chứng minh nguồn gốc mọi vật là một năng lượng duy nhất (Energy). Năng lượng này tiềm tàng trong tất cả và có thể chuyển đổi (Transformation) trong vậy chất. Điều này không khác quan niệm Thượng đế là một và hiện diện trong tất cả muôn loài. Nhưng năng lượng uyên nguyên này căn bản từ đâu mà có ? Theo Einstein năng lượng căn bản nhất chính là ánh sáng. Vật chất chẳng qua chỉ là sự đông đặc của các năng lượng nghĩa là của ánh sáng. Qua các cuộc thí nghiệm của Einstein tại đại học Princeton, người ta có thể biến ánh sáng thành vật chất và chuyên vật chất thành ánh sáng. Cái vũ trụ kỳ diệu gồm những vật chất cứng nhắc thu hút lẫn nhau của nhà bác học Newton, cha đẻ của ngành khoa học đã bị Einstein phá tung vì bản chất thật sự của vũ trụ đã “bốc thành hơi” vì được cấu tạo bởi những yếu tố vi tế nhất: ánh sáng

Các nhà khoa học đều cho rằng đây là một khám phá hy hữu chưa từng có nhưng thực ra họ đang kiểm chứng một chân lý cổ xưa nhất thế giới đã được truyền dạy bằng lời, được khắc ghi trên vỏ cây, da cừu hay vách đá của các nền văn minh cổ: Thượng đế chính là ánh sáng. Kinh thánh đã ghi: “Điều được thượng đế sáng tạo đầu tiên là ánh sáng rồi mới đến các vật khác”. Tuy nhiên lúc đó trước khi có vạn vật thì làm sao Ngài tạo ra ánh sáng ? Chỉ có một lời giải thích giản dị: Ngài tạo ra ánh sáng từ chính nơi Ngài như một con nhện dệt tơ từ chính thân thể nó. Ngài tạo ra ánh sáng từ nơi ngài thì ánh sáng chính là Ngài và ánh sáng chính là Thượng Đế. Kinh Upcinishad của Ấn giáo cũng ghi nhận: “Brahma hay Đáng Sáng Tạo đã tạo ra ánh sáng và từ ánh sáng này phát sinh muôn vật”. Các cuốn cổ thư Ai Cập cũng ghi nhận: ” Thái Dương (Ra) là chủ thể của vũ trụ và từ ánh sáng của Ra mà sự tạo thiên lập địa mới xảy ra”, do đó trong tôn giáo Ai cập, ngôi Thái Dương (Ra) là biểu tượng của sự sống và sáng tạo. ( thêm: sự tạo vạn vật được miêu tả: khi mà mọi thứ đều chưa tồn tại, 1 vụ nổ xảy ra được diễn tả bằng từ “Um” từ đó vạn vật bắt đầu diễn ra)
Ngành vật lý nguyên tử còn đi xa hơn nữa và chứng minh rằng vạn vật đều có 1 căn bản chung là nguyên tử. Điều này không khác quan niệm nhất nguyên về vũ trụ. Trước thế kỷ XX, đó chỉ là niềm tin trừu tượng của tôn giáo, nhưng ngày nay, nó là một luận cứ khoa học vững chắc. Phải chăng nguyên tử là “danh từ mới” của khoa học ngày nay để diễn tả những sự kiện mà người xưa đã biết từ lâu ? Nguyên tử được coi là viên đá căn bản kiến tạo vũ trụ với những dương điện và âm điện chuyển động trong 1 tiết điệu đặc biệt, hợp rồi tan,tan rồi hợp như một hơi thở. Điều này có khác gì quan niệm về hơi thở thiêng liêng của Thượng Đế.
Nhà vật lý học Karl Darroxv của Bell lab nhờ quan sát các diễn tiến của vật chất phát sinh và tan biến thành năng lượng đã viết: “Ngoài sự tương phản giữa sự sống và sự chết,người ta không thể tìm thấy 1 sự kiện nào đặc biệt tương đồng như sự chuyển đổi từ vật chất ra ánh sáng. Các Quang tử ( Photon:đơn vị nhỏ nhất của ánh sáng) và Điện tử ( Electron:đơn vị nhỏ nhất của vật chất) tuy khác nhau nhưng có thể tan biến đi để thay thế cho nhau. Khi bắt 1 quang tử đi vào một đơn vị vật chất, người ta thấy 1 điện tử âm và dương nhảy vọt ra và động năng của cặp điện tử này là một tổng số toán học có thể định trước. Do đó, người ta có thể kết luận một quang tử tan ra để tạo thành 1 cặp điện tử hay ánh sáng đã tạo ra vật chất. Cũng như thế, nếu phá tan cặp điện tử này thì người ta sẽ thành quang tử hay ánh sáng”. Quan niện một (quang tử) sinh ra tất cả (cặp điện tử hay căn bản vật chất) và tất cả có thể hợp thành 1 không khác gì quan niệm :” vạn vật đồng nhất thể” hay “nhất bản tán vạn thù” của người xưa. Phải chăng sự duy nhất của vạn vật không phải sự tin tưởng suông mà là có căn cứ vững chắc?
Tóm lại ánh sáng và vật chất không bất biến nhưng cái năng lượng chuyển đổi từ vật chất thành ánh sáng và từ ánh sáng thành vật chất hay cái động năng thiêng liêng tiềm tàng kia mới là vĩnh cửu. Thật ra từ ngàn xưa các đạo gia thời cổ đã biết rõ điều này qua hiện tượng cọ xát miếng da vào mảnh hổ phách để sinh ra tĩnh điện. Sự cọ xát và thu hút của vật chất đã được các thầy phù thủy biểu diễn cả ngàn năm nay nhưng đến ngày nay khoa học mới bắt đầu chứng minh được các lý thuyết về năng lượng.
Nếu thượng đế là ánh sáng (năng lượng) và tất cả mọi vật đều chỉ là sự đông đặc của năng lượng hay ánh sáng thì hiển nhiên tất cả chỉ bắt nguồn từ 1 đấng duy nhất, vô sở bất tại. Như thế con người không thể rời xa “Thượng Đế” được. Tất cả vũ trụ này đều được xây dựng từ Thượng Đế, tất cả mọi vật đều thấm nhuần sự sống ban rải từ Thượng Đế …


Phần 2

Tổng hợp nghiên cứu của Ernst Muldashev

 

(Ernst Muldashev là Viện sỹ, là tiến sĩ y khoa, Giáo sư, Giám đốc trung tâm phẫu thuật mắt và tạo hình Liên Bang Nga của Bộ Y tế Nga. Ông còn là thầy thuốc Công Huân đạt huy chương “Vì những cống hiến cho ngành y tế” của LB Nga. Ngoài ra, ông cũng là chuyên gia tư vấn danh dự của Đại học Tổng Hợp Lu-in-Svin (Mỹ), viện sĩ Viện Hàn Lâm nhãn khoa Mỹ, kiện tướng môn du lịch thể thao, ba lần kiện tướng Liên Bang Xô Viết… Ernst Muldashev đã nghiên cứu thành công 90 loại phẫu thuật mới, sáng chế và đưa vào ứng dụng 60 loại nguyên liệu sinh học, đăng trên 400 công trình khoa học, nhận 56 bằng sáng chế của Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Ông đã thỉnh giảng và phẫu thuật trên 40 nước, hàng năm giải phẫu từ 600 đến 800 ca mổ mắt phức tạp nhất. Muldashev là người đầu tiên trên thế giới tiến hành phẫu thuật cấy ghép mắt thành công, hiện ông tiếp tục nghiên cứu phẫu thuật tái sinh hàng loạt các bộ phận cơ thể người.)

Thế giới tế vi bao gồm các trường xoắn khác nhau phức tạp dần lên.Các trường xoắn của không gian, thời gian ngày một có tích lượng thông tin nhiều hơn, tức có khả năng chứa đựng trong mình ngày một nhiều thông tin hơn. Dần xuất hiện những trường xoắn nhiều tầng, nhiều lớp hơn và dần dà xuất hiện những khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu.

“Phát sinh từ Tuyệt đối, vật chất chia thành hai thế giới: thế giới tế vi và thế giới vật thể. Thế giới vật thể thay đổi dần trong quá trình hình thành các hệ ngân hà, sao, hành tinh và khí giữa các hành tinh. Thế giới tế vi tức thế giới tần số cực cao cũng thay đổi, nhưng bằng cách khác. Ở thế giới tế vi bắt đầu xuất hiện các trường xoắn phức tạp dần. Tức là thế giới tế vi tiến hóa nhờ sự phát triển của cá trường xoắn tần số siêu cao. Chúng tôi cho rằng, chính các trường xoắn đó là khởi nguyên của những tình cảm chủ yếu của chúng ta – thiện, yêu thương và độc ác, mà tiếng nhắc bảo thầm kín của chúng ta vẫn nghe thấy từng giây, từng phút”

Sự xuất hiện của cái thiện, kiến thức và cái ác.
Bên trong các trường xoắn có thông tin (chúng ta có thể mường tượng đến hình ảnh của Gen để có thể dễ minh họa hoặc như tác giả nói là sóng truyền hình và truyền thanh chuyển phát thông tin), thông tin này cũng tác động ngược lại các trường xoắn, thúc đẩy quá trình phức tạp hóa.
Những lực xoắn các trường lại với nhau là những lực có ích (tích cực) nó giúp các trường liên kết, kết hộ và bảo toàn thông tin. Những lực tháo lơi các trường xoắn là lực ác (tiêu cực) chúng phá hủy tổng thể thông tin và xóa thông tin.
Trong quâ trình tư duy chúng ta sử dụng năng lượng của thế giới tế vi còn não chúng ta thức đẩy quá trình xoắn các trường torsion trong linh hồn

Cái thiện và cái ác tiên phát, thứ phát, tam phát…
Tri thức, mà nền tảng là thông tin về kinh nghiệm tranh đấu của cái thiện (lực xoắn tích cực) và cái ác ( lực xoắn tiêu cực). Ở thời kỳ tiến hóa đầu của thế giới tế vi xuất hiện sự tồn tại cái thiện và cái ác “tiên phát”. Cái ác thắng thì thông tin bị phá vỡ và bắt đầu lại từ đầu. Cái thiện thắng thì thông tin được liên kết và hình thành. Khi các thiện thắng cũng là lúc năng lượng xoắn xóa thông tin của cái ác “thứ phát” ra đời đối nghịch với cái thiện vừa được kết hợp và sinh ra. Những trường xoắn ác cũng có thể lưu giữ thông tin là kinh nghiệm đấu tranh giữa cái ác và cái thiện từ đó thông tin được sử dụng trong tranh đấu.
(Minh họa nôm na theo cách chủ quan, nó giống như 2 sợi dây thừng có quán tính,1 sợi thì đẩy còn 1 sợi thì hút, sợi đẩy mạnh hơn thì thông tin bị tháo lơi xa nhau, sợi hút mạnh hơn thì thông tin được đúc kết tạo thành từng nút bện, những thông tin của cái ác dựa trên khối lượng thông tin cái thiện đã tích lũy bện chặt, và dựa vào đó để tự phát triển phá lơi chính bản thể thông tin. Chúng không phải là 2 cá thể tách biệt). Sau mỗi lần tranh đấu cái ác thắng thì thông tin mất đi 1 phần, cái thiện thắng thì thông tin lại được liên kết tạo ra cái thiện tam phát lớn hơn, cái thiện tứ phát, tương ứng với nó là cái ác tam và tứ phát.
Dần dần chúng trở thành một trường xoắn cực kỳ phức tạp nhiều tầng lớp bao gồm cả thông tin tích cực lẫn thông tin tiêu cực. Vì thông tin là sự phản ánh đúc kết mỗi lần đối đầu nhau của cái thiện và ác, nên cái ác hay thiện là bất diệt, thiếu 1 trong 2 sự tiến bộ sẽ bị ngưng trệ. Nhưng bên cạnh đó cũng không thể thờ ơ với cái ác, nó có thể âm thầm phá hủy thông tin và phá hủy tần tầng lớp lớp tiến hóa trong lúc mà chúng ta không để ý, sự đổ vỡ rất nhanh chóng chỉ có có sự tái tạo và xây đắp mới cần nhiều thời gian.” Bởi vậy không thể thỏa hiệp với cái ác, mà cần nhớ rõ rằng, thờ ơ với cái ác là điều đáng sợ”

Tình yêu là gì ? (Hãy hiểu tình yêu theo hướng rộng nhất chứ không chỉ là tình yêu trai gái)
Theo tác giả, tình yêu là sự gia tốc,gia tăng quá trình xoắn các trường của thế giới tế vi dưới tác động của các trường xoắn tích cực khác. Nói 1 cách có hình ảnh tình yêu là khi hai trường xoắn tích cực được tiếp xúc với nhau và tăng cường mức độ xoắn của các trường torsion của nhau, từ đó thúc đẩy sự chống trả các trường xoắn tiêu cực,bảo toàn thông tin.
Các trường xoắn tiêu cực khi tiếp xúc với nhau không có khả năng gia tăng mức độ xoắn. Bởi vậy cái ác không có tình yêu.

Cõi kia cấu tạo ra sao ?
Sự xuất hiện cái thiện và cái ác thứ hai, thứ ba, thứ tư v v.. đồng thời hai phía cùng gia tăng xoắn các trường thiện, khi tiếp xúc với nhau ( tình yêu) đã làm hình thành ở Cõi kia những cấu trúc trường kỳ phức tạp, có khả năng không chỉ bảo toàn và truyền tải thông tin mà còn tự thân hoàn thiện, tiến bộ. Những khối năng lượng kết đông đó của thế giới tế vi, mà có thể hình dung ở dạng những trường xoắn nhiều tầng.
Vai trò của tình yêu như yếu tố tăng cường các tư tưởng thiện. Sự xuất hiện cộng đồng linh hồn liên kết với nhau theo kiểu mạng máy tính điện tử đã làm cho thông tin được khắc cùng một kiểu chung cho mọi linh hồn. cùng với sự phức tạp dần của mỗi linh hồn trong quá trình tiến hóa, ý nghĩa của thông tin ngày một lớn dần, bởi tiến bộ vốn là cuộc đấu tranh của thiện và ác, phải tự điều chỉnh không chỉ trong phạm vi mỗi một linh hồn mà còn chịu sự điều chỉnh chung trong phạm vi Không gian thông tin toàn thể. Các chức năng chung được chuyển cho nhóm linh hồn phát triển nhất, ở các linh hồn này bắt đầu xuất hiện những trường xoắn chúng mang thông tin có tính chất chung. Các chức năng chỉ đạo toàn bộ Không gian thông tin, liên kết các kinh hồn muôn hình muôn vẻ đã gia tăng sự phát triển và làm phức tạp các trường xoắn chung đó. Chúng bắt đầu tích tụ một khối lượng thông tin to lớn, được sử dụng để điều khiển toàn bộ sự sống dạng sóng ở cõi kia. Cái khối năng lượng đông đặc đó của cõi kia hùng mạnh nhất về lượng thông tin và khả năng suy tưởng có thể hình dung như những trường xoắn siêu đa tầng mà chúng ta – tôi nghĩ vậy – vẫn gọi là Chúa Trời.
Chúa Trời chính là trung tâm điều khiển sự sống dạng sóng vũ trụ hay là coi kia.
Từ các suy xét logic trình bày trên đây, ta thấy rõ ràng là cuộc đấu tranh của thiện và ác là cơ sở của quá trình tiến hóa nơi cõi kia, rằng mỗi linh hồn có cả các yếu tố “thiện” lẫn “ác” để luôn luôn có tác nhân kích thích tự hoàn thiện. Cũng như vậy, theo tôi, Chúa Trời là thần trung ương siêu mạnh, mang chứa trong mình các nhân tố tâm năng cả tích cực lẫn tiêu cực. Chúa Trời có tiềm lực yêu thương khổng lồ, bởi người được tạo ra như kết quả của tình yêu, là kết quả của thiện và tình yêu chiến thắng cái ác.

Cõi kia và cõi phàm 
Phát triển phù hợp với các nguyên tắc đó, sự sống dạng sóng vũ trụ Cõi kia đã đạt tầm mức rất cao và xuất hiện như cầu biết sử dụng các vật chất khác, ví dụ thế giới vật thể.
Sự sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra bằng cách hồn ( năng lượng) cô đặc dần. Chúng ta còn ít hiểu biết về tổ chức của thế giới vi tế và chỉ có thể phỏng đoán về thực chất bản chất của nó. Nhưng các tôn giáo phương Đông lại nói nhiều đến hiện tượng vật chất hóa ý nghĩ, tức vật chất của thế giới vi tế chuyển sang thực thể vật lý.
Giả thuyết sự sống trên trái đất phát sinh nhờ vật chất hoặc các bộ phận sống dạng sóng vũ trụ ( hồn) có thể bị coi như mới về nguyên lý, mà cũng có thể bị xem như một kiểu quan niệm tôn giác về sự cô đặc hồn. Song bản chất của vấn đề không phải ở đó. Điều chủ yếu là giả thuyết này cho phép lý giải nhiều hiện tượng khó hiểu và nhìn nhận lịch sử loài người trên trái đất theo góc độ khác.

Tham khảo thêm về tóm tắt sự phát triển lịch sử các nền văn mình đầu tiên tại đây

Phim đề cử

Tập hợp một số bộ phim khiến tôi ấn tượng :

  1. LUCY SIÊU PHÀM

Bộ phim này khắc họa 1 góc nào đó khả năng của con người, nhưng tất nhiên là không nhất thiết cần dùng đến cái loại chất kích thích như trong phim :)) và một vài triết lí sâu xa nào đó mà tác giả cố gắng gửi gắm trong những chi tiết cuối cùng của phim. Về việc khi thấu hiểu mọi thứ thì cũng là lúc con người hiểu về việc mình là một với tất cả.

2. Before i wake (Ác mộng) 2016   

Ấn tượng của bộ phim cũng không có gì nhiều ngoài vấn đề khả năng của trẻ nhỏ và những sự kiểm soát tâm trí của mỗi người. Con người hoàn toàn có khả năng kiểm soát thứ mà họ sở hữu. Hãy tìm hiểu căn nguyên của những vấn đề tồi tệ, bạn sẽ thấy mọi thứ khác đi rất nhiều, đừng để sự vô thức khiến những điều đẹp đẽ tuyệt vời trở thành nỗi ám ảnh.

3. Light out (Ác mộng bóng đêm) 2016

Bộ phim này khiến tôi lưu lại chỉ đơn giản cũng vì nó liên quan đến sức mạnh tâm trí ^^ và hậu quả của việc không có cách nào kiểm soát được tâm trí của mình, hãy xem lại đoạn note của Before i wake nhé :3

4. I Am the Pretty Thing That Lives in the House (2016)

Đây là một bộ phim khá khó hiểu và chán ngắt đối với một khán giả bình thường, nhưng đối với một người thích nghiên cứu về tâm linh thì nó lại như 1 cơ hội để nghiền ngẫm “diễn biến của câu chuyện đang nói về điều gì” ? Riêng tôi thấy rất ấn tượng về việc nhận thức và dũng cảm xây dựng 1 cốt truyện như vậy của tác giả

Dưới đây tôi spoil trước nội dung, nên nếu ai muốn xem và nghiền ngẫm thì hãy xem phim trước khi đọc đoạn này nhé : “Theo phán đoán của bản thân :)) Ý của tác giả là có 3 cuộc sống. 1 cuộc sống là đứa bé sơ sinh mới sinh ra đã bị giết, 1 cuộc sống là cô gái bị người yêu giết, 1 cuộc sống là cô y tá trong phim, cả 3 đều là 1 linh hồn.
Chứng cứ để rút ra suy luận trên là: 2 nhân vật có mở đầu câu truyện giống nhau, và ban đầu cô y ta nhìn vào tay mình thấy chương phồng và mốc ( như 1 cái xác bị thấm nước và mốc do ẩm ướt – cái chết của cô gái bị người yêu giết) , trong phim cũng nói rất nhiều về việc “nhìn bóng ma như nhìn vào bản thân” .Tiếp theo, khi bà cụ nói , thì cô y tá như thấm hiểu được gì đó và rơi lệ v..v…
T không dám chắc, nhưng có lẽ nội dung kiểu như oán niệm của linh hồn quá dày đặc nên 1 phần nhất quyết ở lại ngôi nhà. nó gây nên một mối liên kết khiến 1 phần còn lại dù hóa kiếp rồi vẫn bị kéo về ngôi nhà và chết ở đó.
Cuối phim, t nghĩ rằng mẹ thằng nhóc là linh hồn đó ở kiếp thứ 4. Vì hồn ma khẳng định “ngôi nhà đó ko được bán hay mua lại bởi người sống” ? vì người mua/thuê nó hiện giờ chỉ có 1 nửa linh hồn đang còn sống và chính là phần còn lại của linh hồn đang nói :)) nên ko tính là người sống. :)))) ( theo thuyết phân mảnh linh hồn trong tâm linh)
The end

5. Hansel and Gretel (2007)

Một bộ phim mang tính chất khắc họa tâm lý và khả năng của trẻ nhỏ. Nếu ai đã từng trải qua độ tuổi đấy cùng những tình huống không mấy thuận lợi của gia đình thì hẳn có lẽ sẽ hiểu được điều mà bọn trẻ được bộ phim khắc họa. Bộ phim có tính chất kỳ bí, không hoàn toàn là dạng tâm lý xã hội bình thường.

Spoil tình tiết của phi: trong phim những đứa trẻ chỉ vận dụng khả năng của mình khi được ông già noel tặng cuốn truyện cùng lời nhắn ” từ nay các cháu sẽ có được mọi thứ chỉ cần các cháu tưởng tượng và thứ sự mong muốn điều đó”. Nhưng thực chất bọn trẻ đã nhen nhóm sử dụng khả năng của mình từ trước khi ông già noel tới, santa chỉ là người xúc tác chỉ đường cho bọn trẻ phải làm những gì. Và thực chất đó không phải là satan, có đoạn 1 người đang nấp nấp sau tủ, hí hoáy mặc đồ santa, nhưng tình tiết sau đó của phim lại cố làm cho khán giả tin đó chính xác là santa đến cứu giúp tụi nhỏ. Santa sẽ không làm những điều đó, đó là 1 kẻ giả mạo santa , liệu đó có thể là “Satan’ hay không ? Hãy tự suy nghĩ.

Ý thức vĩ đại kết nối tâm trí giữa vạn vật

Cuộc phỏng vấn tác giả, tiến sĩ Larry Dossey về quyển sách mới có tựa đề ‘Một Tâm Trí’

Tiến sĩ Larry Dossey là một trong những cha đẻ của phong trào y học tổng thể (cách điều trị cân nhắc đến tất cả các nhân tố của con người – cơ thể, tâm trí, tâm linh và cảm xúc- để đạt tới sức khỏe tối ưu) và đồng thời là cố vấn của tác giả bài viết.

1. Frank Lipman: Cuốn sách Một Tâm Trí (One Mind) của ông đề cập đến điều gì?

Larry Dossey: Cuốn sách này thảo luận về bản chất của tâm trí chúng ta. Tôi chứng minh rằng tâm trí của chúng ta không chỉ giới hạn trong bộ não hay cơ thể như chúng ta vẫn thường được dạy, mà nó còn mở rộng vô hạn ra bên ngoài. Tâm trí của chúng ta không có giới hạn hay biên giới, nên chúng sẽ hòa lẫn với tất cả tâm trí của các sinh mệnh khác để hình thành Một Tâm Trí tổng thể.

Cái tâm trí rộng lớn hơn này dường như không có giới hạn về thời gian, nên nó bất tử và trường tồn vĩnh viễn. Nó cũng là một nguồn trí tuệ và sáng tạo lớn lao. Bức tranh này được dựa vào rất nhiều các bằng chứng cũng như nhiều trải nghiệm phong phú của con người, mà tôi trình bày một cách chi tiết đầy đủ trong cuốn sách.

Vì vậy, về cơ bản cuốn sách này nói đến kích cỡ của tâm trí —nhỏ, trung bình, lớn, ngoại cỡ, hay thậm chí là vô hạn.

Nó nói về mỗi tâm trí của cá nhân chúng ta không chỉ độc lập đơn lẻ, mà còn được kết nối trong Một Tâm Trí như thế nào.

Điều này nói về các mối quan hệ của chúng ta — cách thức bộ não của chúng ta kết nối với nhau và với tất cả các sinh mệnh trên Trái đất, và tại sao điều này lại tối quan trọng đối với sự sinh tồn của chúng ta.

Tôi muốn nói rằng anh, người phối ngẫu của anh, con cái, anh chị em, người yêu, tổ tiên, hậu thế, và ngay cả mẹ vợ và con chó, con mèo của anh, tất cả đều là các thành viên của một ý thức bao quát hơn: Một Tâm Trí [đơn nhất tổng thể] (the One Mind)

Trong thế kỷ 20, chúng ta đã tách riêng phần tâm trí ra để phân tích. Nay tôi đang đặt nó trở lại.

Chúng ta được dạy rằng tâm trí của chúng ta được phân mảnh, được phân chia thành tiền ý thức, tiềm ý thức, vô thức, và vô thức tập thể. Cuốn sách này trái lại sẽ nhìn xuyên qua phía đầu bên kia của kính viễn vọng. Nó cho thấy rằng các tâm trí riêng lẻ của chúng ta là một phần của chỉnh thể ý thức lớn hơn, một tầng ý thức bao hàm tất cả các loại tâm trí — quá khứ, hiện tại, và tương lai, con người lẫn phi con người.

Một Tâm Trí, cơ chế mà tâm trí đơn lẻ của chúng ta là một phần của một ý thức lớn hơn và tại sao nó lại quan trọng. (Hình ảnh: drfranklipman.com)

2. Frank Lipman: Tại sao điều này lại quan trọng?

Larry Dossey: Việc nhận thức ra điều này là hy vọng lớn nhất cho sự tồn vong của chúng ta trên Trái đất. Chỉ bằng cách nhận thức ra, tại tầng cảm xúc sâu thẳm nhất, sự liên kết của chúng ta với nhau và với chính Trái đất này thì chúng ta mới có thể đủ can đảm để đưa ra những quyết định khó khăn cần thiết cho sự sinh tồn. Vì vậy quyển sách này là về việc sinh tồn — cứu lấy Trái Đất và chính chúng ta.

Alice Walker đã từng nói: “Bất cứ điều gì chúng ta yêu quý đều có thể được cứu” – tôi cho rằng, bao gồm Trái đất, bản thân chúng ta, con cái chúng ta, và thế hệ kế cận mà vẫn chưa được sinh ra. Cuốn sách Một Tâm Trí sẽ hỗ trợ chúng ta liên kết và thống nhất với tất cả những gì còn lại, từ đó có thể chia sẻ tình yêu đến muôn loài. Một Tâm Trí sẽ giúp chúng ta tái lập sự thần thánh của thế giới này.

Làm sao chúng ta biết được Một Tâm Trí như vậy thực sự tồn tại?

Ví dụ về Một Tâm Trí hiện diện ở khắp mọi nơi xung quanh chúng ta. Đây không phải chỉ là triết học thuần túy. Từ thời kỳ này đến thời kỳ khác, chúng ta đều trải nghiệm các sự kiện mà sẽ chỉ có ý nghĩa khi tâm trí của chúng ta kết nối với nhau.

Tình yêu của một người mẹ dành cho đứa con là một phạm trù nghiên cứu về sự thống nhất, trong đó khoảng cách và biên giới vật lý không có ý nghĩa. Bất cứ ai đã từng yêu sâu đậm sẽ trải nghiệm được điều tương tự: một sự kết nối giữa hai người trong đó khái niệm về “người kia” không còn nữa. Gần đây có nổi lên khoa phả hệ, tức nghiên cứu về nguồn gốc gia đình. Người ta có thể xem đó là nỗ lực tái thiết mối liên kết và sự khao khát một sự hòa hợp làm một.

Hơn thế nữa, con người thường trao đổi suy nghĩ, cảm xúc, và thậm chí cả những cảm giác vật lý ở khoảng cách xa. Điều này đặc biệt phổ biến giữa những người có cảm xúc gần gũi với nhau. Ví dụ cổ điển là một bà mẹ mà “tự nhiên biết được“ rằng con bà đang gặp nguy hiểm, mặc dù đang ở cách đó rất xa — như thể bà mẹ và đứa con có cùng một tâm trí và ý thức chung vậy.

Ví dụ khác: Con người thường có thể thu thập kiến thức về sự vật theo những cách không thể lý giải được. Lấy ví dụ, nhà phát minh vĩ đại Thomas Edison từng nói:

“Tôi chưa bao giờ tạo ra bất cứ cái gì. Tôi thu nhận cảm hứng từ Vũ trụ rộng lớn và diễn đạt chúng ra”.

Ví dụ khác: Những thiên tài, vốn thường có xu hướng mắc các khuyết tật về mặt tâm trí, không thể đọc, và không có khả năng học, nhưng lại có thể đưa ra những thông tin chi tiết mà họ lý ra không thể biết được. Vậy những kiến thức này đến từ đâu? Tôi cho rằng họ đã kết nối với một kho trí tuệ gọi là Một Tâm Trí.

Con người thường hay có những giấc mơ chi tiết về những sự kiện xảy ra trong tương lai, mà tôi đã dành cả quyển sách có tựa đề Quyền năng của Linh cảm để thảo luận về nó.

Các trải nghiệm cận tử là một cánh cổng dẫn đến Một Tâm Trí. Mười triệu người Mỹ đã trải nghiệm hiện tượng này. Điểm đặc trưng của những trải nghiệm loại này là một sự thống nhất với tất cả những thứ ngoài kia — một nhận thức quá đỗi sâu sắc đến nỗi đã làm cuộc sống của họ biến đổi sau khi hồi phục.

Tôi thảo luận một loạt các trải nghiệm khác nhau thuộc loại này. Chỉ đơn giản là không có cách nào giải thích những việc như vậy bằng quan điểm truyền thống – cho rằng tâm trí của chúng ta bị giới hạn bởi bộ não, rằng chúng ta thu thập thông tin chỉ qua các giác quan vật lý, và rằng tâm trí của chúng ta đứng cách biệt với tâm trí của người khác. Cần phải có một tầm nhìn lớn hơn về ý thức — cái mà tôi gọi là Một Tâm Trí.

Bằng chứng cho thấy tâm trí của chúng ta không bị giới hạn bởi bộ não và thân thể. Và nếu nó không giới hạn hay hạn chế vào những địa điểm đặc định trong không gian, thì các tâm trí cá nhân của chúng ta phải hòa hợp với nhau theo một cách thức nào đó, trong Một Tâm Trí.

Các lợi ích là vô cùng lớn. Nếu tâm trí của từng cá nhân chúng ta không có biên giới và hòa lẫn vào với tất cả những tâm trí khác, thì điều đó có nghĩa là chúng ta có thể tiếp cận tất cả trí tuệ và khả năng sáng tạo có thể. Và vì Một Tâm Trí là vô hạn định không chỉ trong không gian mà cũng còn trong thời gian, nên nó phải là bất tử, theo một cách hiểu nào đó. Vì vậy cách nhìn nhận theo Một Tâm Trí cũng đảm bảo cho chúng ta sự tồn tại sau cái chết thể xác.

Frank Lipman: Từ đâu mà ông nảy sinh ra ý tưởng này?

Larry Dossey: Khái niệm về Một Tâm Trí đã xuất hiện trong một khoảng thời gian dài. Chúng ta có thể lần theo nguồn gốc của nó trong triết học Ấn Độ cổ đại 3.000 năm về trước, khi nó được gọi là các Ghi chép Akashic. Nó vang dội trong khái niệm của đạo Hindu về sự hợp nhất giữa thần và người: tat tvam asi (Bạn là như thế đó).

Rất nhiều truyền thống coi trọng trải nghiệm về Một Tâm Trí. Nó đã được gọi bằng những cái tên khác nhau như Ngộ trong Thiền, samadhi (hay Định) trong Yoga, fana trong đạo Xufi, và ý thức Thiên Chúa trong Công giáo. Các thuật ngữ khác bao gồm ý thức vũ trụ, khai ngộ, giác ngộ, v.v…

Việc trải nghiệm Một Tâm Trí, bất kể nó được gọi tên như thế nào, bao gồm một sự lĩnh hội trực tiếp về vũ trụ và vạn vật trong nó như Một Thể Duy Nhất mà không có các đường phân chia hay sự phân loại bên trong. Tất cả mọi thứ được kết nối với tất cả mọi thứ khác. Sự phân chia và sự ngăn cách là ảo giác không có thật. Như nhà tâm lý học Lawrence LeShan đã viết: “Không có sự phân cách giữa các thực thể, dù là thời gian hay không gian. Toàn bộ vũ trụ được nhận thức là ‘một thể duy nhất chứ không thể là hai”. Trải nghiệm này mang theo nó một cảm giác là một người đã thâu tóm được Chân lý không thể sai lệch. (Nguồn: Lawrence LeShan, Landscapes of the Mind. Guilford, CT: Eirini Press; 2012: 91).

Ở đây có sự ám chỉ đến ý tưởng trong Kinh Tân Ước. Thánh Paul đã nói đến “sự an lành của Chúa, vượt quá tất cả sự hiểu biết [của nhân loại]”. Như nhà nghiên cứu thần thoại Joseph Campbell đã nói, Chúa Giê-su nói rằng vương quốc của thiên đàng nằm ở bên trong. Ai ngự trị ở thiên đàng? Các vị Thần. Điều này có nghĩa là, Campbell nói, Chúa là ở bên trong mỗi con người — một thực thể vô tận, không giới hạn, bất tử.

Một người Mỹ theo chủ nghĩa tiên nhiệm (transcendentalists) đã ủng hộ khái niệm Một Tâm Trí — ý tưởng của Emerson về Oversoul (một linh hồn thần thánh tràn ngập toàn vũ trụ và bao chứa hết thảy linh hồn của con người – chú thích của người dịch).

Khái niệm vô thức tập thể của nhà tâm lý học người Thụy Điển Carl Jung là một phiên bản của Một Tâm Trí.

William James, người được mệnh danh là cha đẻ của ngành tâm lý học Mỹ, là một người ủng hộ sự tồn tại của một tâm trí đơn nhất, tập thể.

Rất nhiều các nhà khoa học vĩ đại trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã ủng hộ ý tưởng này. Ví dụ như, ý tưởng này đã xuất hiện trong ngành vật lý học hiện đại trong các tác phẩm của nhà vật lý đoạt giải Nobel Erwin Schrödinger, mà những phương trình sóng của ông đã đóng góp nền tảng cho lý thuyết vật lý lượng tử. Nhà vật lý học nổi tiếng David Bohm cũng ủng hộ mạnh mẽ ý tưởng về một tâm trí đơn nhất, bao hàm hết thảy, trong đó bao gồm tất cả tâm trí của từng cá nhân.

Vì vậy ý tưởng về Một Tâm Trí đã xuất hiện cả thiên niên kỷ trước đây và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, và nó đã được củng cố bởi một số những nhân vật lỗi lạc nhất trong khoa học và tâm lý học hiện đại.

Frank Lipman: Ông là một bác sĩ. Liệu chuyên môn có liên quan gì với quan tâm của ông trong Một Tâm Trí không?

Larry Dossey: Có chứ, tất nhiên rồi. Vào giai đoạn ban đầu trong sự nghiệp của một bác sĩ nội khoa, tôi đã trải nghiệm một số sự kiện mà đã thay đổi hoàn toàn quan điểm của tôi về ý thức. Những trải nghiệm này đã làm tôi mất đi sự tự tin của mình.

Cũng như bao người khác, tôi từng tin tưởng rằng tâm trí và não bộ về cơ bản là giống nhau. Nhưng khi tôi bắt đầu trải nghiệm các giấc mơ biết trước tương lai, tức là thu thập được các thông tin về tương lai trước khi sự kiện xảy đến, tôi bắt đầu nghi ngờ quan niệm cho rằng hiện tượng loại này không thể xảy ra. Và đây không phải là trải nghiệm chỉ của riêng tôi; các bệnh nhân của tôi, cũng như các y tá và bác sĩ khác, cũng chia sẻ với tôi các trải nghiệm tương tự.

Vào cuối những năm 1980, các thử nghiệm nhằm đánh giá ảnh hưởng của thiện ý chữa bệnh và cầu nguyện lên tiến trình điều trị ở những bệnh viện vùng xa xôi, đã được xuất bản trên tạp chí y học.

Các thử nghiệm tương tự cũng đã được tiến hành trên sinh vật không phải người cũng như trên các cơ quan nội tạng và tế bào. Kết quả của những thử nghiệm này có hàm ý mạnh mẽ rằng tâm trí của chúng ta không bị giới hạn trong phạm vi của não bộ. Các ý định, suy nghĩ, và mong muốn của chúng ta có thể siêu xuất khỏi cơ thể và thay đổi “thế giới bên ngoài”.

Một số đánh giá trong lĩnh vực này, gọi là phân tích hệ thống/ tổng hợp, đã được xuất bản. Đây là cách kết hợp các kết quả của rất nhiều nghiên cứu nhằm có một cái nhìn tổng quan về một lĩnh vực nhất định. Rất nhiều những phân tích loại này đã được xuất bản trên các tạp chí bình duyệt. Hầu hết trong số chúng đều rất xác thực, từ đó cho thấy những kết quả này là có thật. Dù vậy, chúng ta vẫn chưa thật sự nhận thức chúng một cách đúng đắn.

Hầu như những người theo chủ nghĩa hoài nghi luôn phớt lờ điều này, nhưng quan trọng là rất nhiều những thử nghiệm loại này đề cập đến không chỉ các ảnh hưởng trên con người mà cả trên động vật, thực vật, vi khuẩn, và thậm chí cả các phản ứng hóa học. Tại sao điều này lại quan trọng đến vậy?

Vì những người theo chủ nghĩa hoài nghi thường nhận định rằng nếu một người có các phản ứng với, ví như, quá trình lành vết thương của một cá nhân ở địa điểm khác, thì đó chỉ là hiệu ứng placebo (giả dược) mà thôi — tức là kết quả của suy nghĩ, sự ám thị, hay kỳ vọng mang tính chất tích cực. Nhưng nếu một loài động vật, thực vật, vi khuẩn, hoặc các phản ứng sinh hóa bị tác động đến, thì ảnh hưởng tác động từ xa đó không thể xem là hiệu ứng placebo (giả dược) bởi vì, ít nhất như chúng ta biết, động vật, thực vật, vi khuẩn và các chất hóa học không có khả năng suy nghĩ một cách tích cực. Chúng không thể có các phản ứng placebo. Vậy nên những nghiên cứu trên sinh vật không-phải-người này là những dẫn chứng mạnh mẽ cho thấy các tác động trị liệu từ xa, có ý thức làm trung gian, và các hiện tượng phi cục bộ tương tự là có thật, tức là chúng ta không phải đang tự đánh lừa bản thân mình.


Chỉ bằng cách nhận thức ra, tại tầng cảm xúc sâu thẳm nhất, sự liên kết của chúng ta với nhau và với chính Trái đất này thì chúng ta mới có thể đủ can đảm để đưa ra những quyết định khó khăn cần thiết cho sự sinh tồn.

Những thử nghiệm đa dạng này hướng đến Một Tâm Trí. Chúng cho thấy rằng một số phương diện của ý thức chúng ta hoạt động bên ngoài não bộ và thân thể con người, và không thể bị phong tỏa hay giới hạn, bởi vì nó mang tính chất phi cục bộ/ vô hạn. Và nếu nó là vô hạn, thì tâm trí sẽ không có biên giới và phải hòa lẫn với tất cả các tâm trí còn lại.

Những nghiên cứu khác gọi là các thử nghiệm “tiên lượng” hay các thử nghiệm trong lĩnh vực “nhận thức dự cảm”, cho thấy rằng chúng ta có thể thu thập thông tin về tương lai, ngay cả trước khi sự việc đó xảy ra.

Khi đặt những bằng chứng lại cùng nhau, một bức tranh toàn cảnh về ý thức sẽ xuất hiện, có nghĩa là tâm trí của chúng ta không phải là cục bộ hay giới hạn vào những điểm nhất định nào đó trong không gian hay thời gian. Và nếu tâm trí của chúng ta không có biên giới, trong một chiều không gian nào đó chúng hẳn phải kết hợp với nhau để hình thành nên một tâm trí đơn nhất, một thực thể đơn nhất, cái mà tôi gọi là Một Tâm Trí.

Frank Lipman:Điều này nghe có vẻ hơi mang tính cách mạng, ông có nghĩ vậy không?

Larry Dossey:Trước đây tôi cũng thường nghĩ vậy, nhưng giờ không còn nữa. Các ý tưởng mới trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, toán học, giáo dụ… thường nghe có vẻ như khá cách mạng lúc mới được đề xuất. Xu hướng này là đặc biệt đúng khi thảo luận về phương diện ý thức. Như một nhà khoa học theo chủ nghĩa hoài nghi đã nhận xét cho ý tưởng về ý thức phi cục bộ, không giới hạn như sau: “Đây là điều tôi sẽ không thể tin, ngay cả nếu nó đúng”.

Nhà vật lý học Max Planck, người lập nền tảng chính cho vật lý lượng tử, đã gặp phải sự chống đối loại này. Ông cho rằng thế hệ những nhà khoa học già hơn sẽ lụi tàn dần, để cho những cá nhân trẻ hơn, có cách nhìn cởi mở hơn thế chỗ. Quan điểm của Planck có thể được hiểu như sau: “Khoa học thay đổi sau khi thế hệ khoa học này chết đi, nhường chỗ cho thế hệ khoa học khác”.

Một sự thay đổi triệt để về căn bản trong bất cứ lĩnh vực nào hầu như sẽ luôn vấp phải sự chống đối.

Cũng tương tự như vậy trong lĩnh vực khoa học. Rất nhiều người theo chủ nghĩa hoài nghi có xu hướng nghĩ rằng các khái niệm truyền thống của chúng ta về ý thức, hay bộ não, đã được đặt định chắc chắn như đá rồi.

Nhưng các quan điểm mới về nhận thức vẫn tiếp tục xuất hiện trong lịch sử. Vào thế kỷ 20 chúng ta đã thấy một tràng các khái niệm mới về ý thức — vô thức, tiền ý thức, tiềm ý thức, và vô thức tập thể. Một Tâm Trí là một phiên bản của vô thức tập thể, mà đã được miêu tả khái quát bởi nhà tâm lý học lỗi lạc Carl Jung, nhà tâm lý học William James, và rất nhiều người khác nữa. Nhưng chúng tôi có thứ mà hai nhà khoa học Jung và James không có: rất nhiều bằng chứng thực nghiệm để chứng minh cho khái niệm này.

Frank Lipman:Nhận thức về Một Tâm Trí đã tạo nên sự khác biệt gì trong cuộc sống của ông?

Larry Dossey:Nhận thức về Một Tâm Trí đã mang đến cho tôi sự bình an, tĩnh tại, và niềm vui.

Anh thấy đấy, bẩm sinh tôi là một người hướng nội, có thiên hướng đơn độc. Nhận thức về vị trí của tôi trong Một Tâm Trí đã giúp tôi vượt qua thiên hướng cô lập thiên bẩm. Tôi cảm thấy tôi đã tìm thấy được một nơi chân thật hơn trong vũ trụ. Nó giống như khi anh về nhà và nhận ra rằng anh chưa từng rời khỏi căn nhà đó. Nó là một loại cảm giác thuộc về cái gì đó, như tìm thấy vị trí tự nhiên của anh trong cấu trúc vĩ đại của vạn vật.

Nỗi sợ cái chết muôn thuở của con người đã không còn nữa. Là một bác sĩ, đây là điều quan trọng đối với tôi, bởi vì tôi tin rằng nỗi sợ cái chết và sự hủy diệt đã gây nên nhiều đau khổ hơn xuyên suốt trong lịch sử nhân loại so với tất cả các loại bệnh tật thể xác gộp lại. Một Tâm Trí sẽ giảm bớt cái nỗi lo sợ đó cùng với sự đau khổ đi kèm. Tại sao? Một Tâm Trí đặt ra sự bất tử bằng tính chất vô tận của chúng ta trong thời gian và không gian.

Sự nhận thức về Một-Tâm-Trí đã ảnh hưởng đến cách tôi liên hệ với những người khác. Tôi trở nên ít tranh đấu hơn, cho đi nhiều hơn, giúp đỡ nhiều hơn, thấu hiểu hơn những khó khăn và vấn đề của người khác, và tương tác nhiều hơn với họ. (Tôi vẫn còn phải nỗ lực nhiều!)

Sự nhận thức về Một-Tâm-Trí giúp tôi thấy được mình có thể tạo ra sự thay đổi như thế nào. Trong xã hội ngày nay, chúng ta có thể cảm thấy quá sức trước những thách thức mà chúng ta đang phải đối mặt. Nỗ lực của tôi – một cá thể đơn độc có thể tạo ra thay đổi gì? Một Tâm Trí gia tăng cảm nhận của chúng ta về sự đủ đầy và những điều khả thi, bởi vì thông qua nó chúng ta có thể tiếp cận với tất cả trí huệ và kiến thức. Chúng ta nhận ra rằng không cần phải biết và làm mọi thứ một cách độc lập, bởi vì chúng ta là một phần của Kết Nối Vĩ Đại. Chúng ta không bao giờ đơn độc. Chúng ta là một đội nhóm lớn vô tận, không phải là một con sói lẻ loi. Áp lực sẽ nhẹ đi. Một cảm giác nhẹ nhõm của tâm trí và tinh thần sẽ xuất hiện, và có lẽ một chút óc hài hước nữa. Đó chính là sự khác biệt rồi!

Bài viết được đăng bản gốc trên trang www.drfranklipman.com. Đọc bản gốc ở đây.
Dr. Frank Lipmanwww.drfranklipman.com
Biên dịch: Quý Khải; Biên tập: Phan A

Cảm xúc của thực vật ( thêm về J C Bose)

Câu chuyện về nhà khoa học Ấn Độ đầu tiên chứng minh cây cối có tri giác, nhận thức được con người

Nếu gọi ông chỉ là một nhà khoa học, thì không khác gì gọi Leonardo Da Vinci chỉ đơn thuần là một tay thợ vẽ. Được mệnh danh là cha đẻ của nền khoa học Ấn Độ hiện đại, ông là một trong những người đầu tiên biết được sự tồn tại của tri giác thực vật, rằng thực vật, giống động vật, cũng có cảm giác, biết suy nghĩ và phản ứng với môi trường xung quanh, chứ không phải là một sinh vật vô tri vô giác đơn thuần. Trong bài viết này, Đại Kỷ Nguyên xin hân hạnh giới thiệu với độc giả cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Jagadish Chandra Bose sinh năm 1858 tại Bikrampur, Ấn Độ. Ông là một người đàn ông với tài năng trên nhiều lĩnh vực, khi đồng thời là một nhà vật lý, nhà sinh vật học, nhà thực vật học, nhà khảo cổ học, tác giả, người am hiểu về hội họa. Trên hết, ông là một trong những khoa học gia lỗi lạc nhất thế kỷ 20.

j-c-bose-tri-giac-thuc-vat-6J C Bose. (Ảnh: Internet)

Ông là người đầu tiên từ tiểu lục địa Ấn Độ nhận được tấm bằng sáng chế của Mỹ, và cùng với các Tesla, Marconi, và Popov, ông được coi là một trong những cha đẻ của ngành khoa học phát thanh (radio). Ông còn là nhà sáng lập Học viện Khoa học Quốc gia Ấn Độ, thành viên Hội khoa học Hoàng gia Anh, thành viên Viện khoa học Vienna (Áo), thành viên Hội khoa học Phần Lan. Ông cũng được Hoàng gia Anh phong tước Hiệp sĩ vào năm 1917.

Tuy nhiên, giống hầu hết các nhà khoa học tiên phong khác, tên tuổi của Bose được biết đến nhiều hơn chính nhờ theo đuổi những lý thuyết gây tranh cãi – những thí nghiệm của ông trong ngành sinh lý học thực vật vào những năm 1900 cùng những khám phá gây sửng sốt kinh ngạc. Nhân kỷ niệm 158 năm năm sinh của J C Bose, chúng tôi xin chia sẻ với độc giả câu chuyện về cuộc hành trình của ông nhằm khám phá ra khả năng phản ứng của thực vật trước các kích thích bên ngoài.

j-c-bose-tri-giac-thuc-vat-5J C Bose. (Ảnh: Internet)

Sau khi tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân ngành khoa học vật chất (Physical Sciences) tại Đại học Kolkata, Bose giảng dạy vật lý tại Presidency College cùng lúc theo đuổi các nghiên cứu cá nhân về điện và sóng điện từ. Tháng 11/1894, lần đầu tiên trên thế giới, Bose tiến hành một thí nghiệm kinh điển tại Town Hall Kolkata nhằm chứng minh sự tồn tại của vi sóng, thông qua việc kích nổ thuốc súng và rung chuông từ khoảng cách xa sử dụng vi sóng.

Ông cũng phát triển một phiên bản cải tiến của ‘coherer’ (một thiết bị có khả năng phát hiện sóng radio), trong đó lần đầu tiên sử dụng một khớp nối bán dẫn. Lúc đầu ông không muốn lấy bằng sáng chế cho thiết bị này, vì cho rằng khoa học nên mang lại lợi ích cho toàn nhân loại chứ không phải là một công cụ kiếm tiền. Tuy nhiên, trước áp lực từ bạn bè, cuối cùng Bose đã nộp đơn lên cơ quan cấp bằng sáng chế của Mỹ, và vào ngày 29/3/1904, ông trở thành người Ấn Độ đầu tiên nhận được một tấm bằng sáng chế của Mỹ cho chiếc “máy phát hiện xung nhiễu điện”. Điều thú vị là, thiết bị ‘coherer’ của Bose sau này đã được chính Guglielmo Marconi –  cha đẻ của ngành truyền thanh – sử dụng để chế tạo chiếc máy radio hai chiều đầu tiên.

Ngoài thời gian chính cho các thí nghiệm khoa học, Bose cũng dành thời gian viết một loạt tiểu thuyết khoa học viễn tưởng bằng tiếng Bengal. Câu chuyện nổi tiếng Polatok Tufan (Tránh bão) của ông mô tả làm cách nào một cơn bão xoáy bị chặn lại bằng cách sử dụng một chai dầu gội đầu! Nó giải thích cách dầu thay đổi sức căng bề mặt và giữ nước. Một cuốn sách khác của ông, mang tên Niruddesher Kahini (Story of the Untraceable), là cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng có sức ảnh hưởng lớn đầu tiên viết bằng tiếng Bengal.

j-c-bose-tri-giac-thuc-vat-4Trang bìa cuốn sách khoa học viễn tưởng “Polatak Toofan” của J C Bose. (Ảnh: Internet)

Có lẽ chính công việc nghiên cứu sóng radio đã khiến Bose tin rằng ngành vật lý có thể đi xa hơn những gì con người có thể nhìn thấy thông qua hai con mắt. Ông vẫn luôn bị cuốn hút bởi phản ứng của các loài thực vật nhạy cảm như mimosa (còn gọi là cây xấu hổ, hay cây trinh nữ), vì khi bị kích thích, các lá cây sẽ ngay lập tức cụp xuống, khép lại trong một cơ chế tự bảo vệ, như thể nó đang sợ hãi. Tò mò trước thế giới bí ẩn của thực vật, Bose đã chuyển hướng sang nghiên cứu cơ chế thực vật phản ứng với các kích thích bên ngoài.

Để làm được điều này, ông đã phát minh ra thiết bị crescograph, một loại máy ghi nhận dao động sớm sử dụng các bánh răng đồng hồ và một tấm kính hun khói để đo lường tốc độ sinh trưởng và các chuyển động nhỏ đến mức 1 / 100.000 inch (1 inch = 2,54 cm) của các loài thực vật. Tấm kính sẽ tiếp nhận hình phản chiếu của thực vật và đánh dấu nó dựa trên chuyển động của chúng. Thí nghiệm ban đầu được tiến hành với một chiếc lá, một củ cà rốt và một cải củ turnip lấy ngay trong vườn nhà ông.

crescograph-j-c-bose-tri-giac-thuc-vatMáy Crescograph của J C Bose. (Ảnh: Internet)

Bose tin tưởng mạnh mẽ rằng cây cối sở hữu một hệ thần kinh nhạy cảm, không giống với động vật, và rằng phản ứng của chúng trước các kích thích bên ngoài có thể được đo đạc và ghi lại. Kết quả các thí nghiệm của ông đã củng cố niềm tin này. Lấy ví dụ, trong một thí nghiệm, khi một cái cây bị nhúng vào bromide (một chất độc), nhịp đập của nó, biểu thị bằng một điểm sáng trên tấm kính hun khói, trở nên bất ổn định ngay khi cái cây bắt đầu hấp thụ chất độc kia.

Điều này chứng minh thực vật cũng có tri giác như động vật, có thể nhận thức thế giới xung quanh, chứ không phải một sinh vật vô tri vô giác như chúng ta vẫn tưởng.

Được khích lệ bởi kết quả thí nghiệm này, Bose bắt tay nghiên cứu phản ứng khác nhau của các loài thực vật dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố môi trường như nhiệt độ, hóa chất, điện, khí và độ ẩm. Càng nhiều phản ứng ông nhận được từ thực vật, càng nhiều nỗ lực ông bỏ ra để tìm hiểu một cách chi tiết. Bose kinh ngạc nhận thấy trạng thái co giật khi chết ở động vật cũng xuất hiện ở thực vật, và rằng thời điểm tử vong thực tế ở thực vật có thể được xác định một cách chính xác. Như ông đã viết:

“Xung quanh chúng ta, thực vật đang giao tiếp với nhau. Chỉ là chúng ta không nhận ra điều đó”.

Với mong muốn tiết lộ sự tồn tại kỳ diệu của tri giác thực vật cho thế giới, Bose đã mô tả thí nghiệm của ông và kết quả của chúng trong cuốn sách năm 1902 với tựa đề “Responses in the Living and Non-Living (tạm dịch: Các phản ứng ở sinh vật và phi sinh vật)”. Ông mô tả việc cây cối sinh trưởng nhanh hơn khi tiếp xúc với âm nhạc tốt và nghe những lời nhắn nhủ nhẹ nhàng, ngược lại sẽ sinh trưởng chậm khi tiếp xúc với loại nhạc ầm ĩ xập xình (VD: nhạc rock) và giọng nói lớn tiếng không chừng mực. Ông thậm chí còn đề cập đến việc thực vật sẽ trở nên u uất khi tiếp xúc với không khí ô nhiễm hay khi trời tối. Tóm lại, công trình của ông cho thấy thực vật có thể cảm thấy vui vẻ cũng như cảm thấy đau đớn tùy thuộc tác nhân bên ngoài.

Tuy rằng nghiên cứu của Bose đã gặp không ít phản đối từ những người bất đồng chính kiến, thiết bị crescograph của ông đã nhận được sự tán dương rộng rãi, đặc biệt từ Đại hội Khoa học Path vào năm 1900. Việc Hội Khoa học Hoàng gia Anh chọn xuất bản bài viết của ông đã tạo ra nhiều cơ hội và lời mời hợp tác nghiên cứu. Trong nhiệm vụ khoa học thứ tư của ông đến Anh vào năm 1914, Bose đã thiết lập một phòng thí nghiệm cá nhân tại Maida Vale, và nơi đây đã vinh hạnh được đón tiếp nhiều cá nhân xuất chúng từ tất cả các nẻo đường cuộc sống.

j-c-bose-tri-giac-thuc-vat-2J C Bose. (Ảnh: Internet)

Các nhà khoa học từ Hội Khoa học Hoàng gia và Hiệp hội Sinh học Linnean đã đến xem các thí nghiệm với tri giác thực vật của Bose. Trong một vụ việc đáng nhắc tới, nhà soạn kịch George Bernard Shaw đã sợ hãi tột độ trước cảnh tượng một miếng bắp cải co giật dữ dội khi ngụp lặn trong nồi nước sôi. Tuy rằng các nghiên cứu của Bose với thực vật đã nhận được sự đánh giá cao của một số nhà khoa học, người ta cũng có thể nhận thấy thái độ khinh thị của giới khoa học phương Tây cho công trình của một nhà khoa học ngoại lai từ Ấn Độ thuộc địa trong cách báo chí Anh mô tả các nghiên cứu của ông bằng những ngôn từ tương tự như với thí nghiệm kinh dị tạo xác sống của bác sĩ Frankenstein.

Tuy nhiên, các thí nghiệm cách mạng đột phá của ông không thể mãi bị phớt lờ. Năm 1920, ông được bầu làm hội viên Hội khoa học Hoàng gia Anh cho những đóng góp và thành quả tuyệt vời của mình. Trước khi qua đời vào năm 1937, ông đã thành lập Viện Nghiên cứu Bose tại Calcutta (hiện là Kolkata). Ông đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ người bạn thân Rabindranath Tagore, người đã hỗ trợ tài chính đồng thời cổ vũ ông trên suốt chặng đường.

Là người ủng hộ mạnh mẽ các nghiên cứu và khám phá của Bose, Tagore luôn tìm thấy cái tinh hoa của tinh thần khoa học Ấn Độ, một sự phản ánh rõ nét văn hóa dân tộc Ấn Độ, trong công trinh của Bose.

Đối với một quốc gia sống dưới sự kìm kẹp của chế độ thực dân, J C Bose không chỉ là một nhà khoa học, ông còn là một biểu tượng của niềm tự hào dân tộc. Bose vẫn luôn thừa nhận trách nhiệm của mình như một nhà khoa học có nghĩa vụ khơi dậy niềm tự hào dân tộc của đất nước ông.

Nhà khoa học huyền thoại đã ra đi gần 80 năm, nhưng di sản của ông sẽ mãi còn đó. Qua nhiều thập kỷ, một số nhà khoa học (như Cleve Backster với thí nghiệm máy dò nói dối nổi tiếng) đã góp phần củng cố lý thuyết của Bose, rằng thực vật không quá khác biệt với động vật như chúng ta tưởng. Thực vật cũng có tri giác, có thể nhận thức được con người và thế giới xung quanh.

Ngày nay, tại Viện nghiên cứu Bose Kolkata, các dự án kiểu này vẫn đang được tiếp tục thực hiện, và có lẽ chúng nên được gọi là Dự án Di sản JC Bose (JC Bose Legacy Project). Tại một chi nhánh của Viện tại thành phố Madhyamgram, công việc đang được tiến hành để giải mã những bí ẩn ở cấp độ phân tử của thực vật (cụ thể là protein và gen) khi biểu lộ các phản ứng khác nhau đối với các kích thích bên ngoài như chạm, ánh sáng hay tiếng ồn

Một lần nữa, chúng ta cảm ơn JC Bose vì đã hé lộ cho chúng ta những nhận thức rất mới về giới thực vật đầy bí ẩn, những nhận thức giúp chúng ta thay đổi thế giới quan về chúng, rằng thực vật không chỉ là những sinh vật vô tri vô giác, mà là những sinh vật có tri giác, có cảm xúc, có suy nghĩ, và có thể nhận thức thế giới xung quanh.

Nguồn

Cảm xúc của thực vật

Vạn vật đều có linh hồn. Xin được chia sẻ với mọi người câu chuyện sau:

Trong tộc người Anh-điêng ở châu Mỹ có một nghi thức cổ xưa, rằng cứ đến lúc cây ngô bắt đầu trổ cờ, thì những người phụ nữ lớn tuổi và người già sẽ đi đến cánh đồng ngô nói chuyện với “cây ngô mẹ”, dùng giọng điệu thương lượng mà trò chuyện với từng cây từng cây một, để đôi bên kết thành tình hữu nghị có cùng nhận thức với nhau : “Này ! Hãy để cho con cái cùng với những hạt ngô của ngươi nuôi sống con của chúng tôi đi! Ta cũng sẽ bảo con cháu của ta nuôi sống con của các ngươi, ngoài ra ta sẽ căn dặn con cái của ta đời này tiếp đời khác đều trồng ngô như vậy”.

Ở Sanda Rosa, California, Lusa Babenco, người kinh doanh vườn ươm nổi tiếng, sau nhiều năm dài đằng đẵng đã lai tạo ra giống mới thuộc loài xương rồng không có gai. Babenco cho biết, trong lúc làm việc ông thường chào hỏi cây: “Không phải sợ nhé! Không cần phải dùng gai để tự vệ đâu, bởi vì đã có ta ở đây để bảo vệ chúng mày rồi!”. v.v.., dần dà khi ông đã gây trồng được ra được giống cây xương rồng không gai.

Đối với vấn đề này, Babanco nói với cảm nhận sâu sắc: “Bất kể làm thực nghiệm gì đối với thực vật, thì nhất định không nên giữ bí mật với chúng. Đặc biệt cần xuất phát từ nội tâm giúp đỡ chúng, cần phải dành con tim yêu thương và tôn trọng đối với sinh mệnh nhỏ bé và yếu ớt của chúng. Thực vật có hơn 20 loại cảm xúc, hơn nữa vì cảm giác giữa chúng và động vật là hoàn toàn khác nhau, cho nên để chúng ta hiểu được chúng là điều thực sự khó khăn. Thực vật có thể hiểu được ngôn ngữ hay không thì không rõ, nhưng chúng dường như có thể làm ra một số phản ứng nào đó đối với ngôn ngữ”.

Có lẽ sẽ có nhiều người nghi ngờ hoặc cười nhạo loại hành vi “trao đổi cảm tình” với thực vật này. Trên thực tế, từ thời gian rất lâu trước đây các nhà khoa học đã chứng minh được rằng có khoảng 400 loại thực vật có thể dự báo tình trạng thời tiết.

Vvào thế kỷ 18, Karl Linnie là người đầu tiên phát minh và thiết kế đồng hồ hoa. Trong mấy năm trở lại đây, các nhà khoa học thông qua một loạt thí nghiệm còn chứng minh được thực vật cũng có cảm tình: Chúng vui vẻ khi có người đối xử tốt với chúng, khó chịu khi những người nồng nặc mùi rượu lại gần, thậm chí chúng còn có ký ức, thị giác và khứu giác, chúng còn có thể hiểu được những suy nghĩ và cảm xúc của bạn để rồi làm ra những phản ứng với nó. Ở đây tôi xin giới thiệu với mọi người một số thí nghiệm khá kinh điển và nổi tiếng.

Thí nghiệm : Cực kỳ thông minh

Một ngày vào tháng 2/1966, một chuyên gia cục tình báo CIA của Mỹ nghiên cứu về máy dò nói dối tên là Cleve Backster , trong một lúc hứng khởi đã nối hai cực của máy dò nói dối lên lá của một cây ngưu thiệt lan hoa, rồi tưới nước vào gốc cây. Trong khi nước đang từ từ chảy xuống rễ cây, ông ngạc nhiên phát hiện rằng: Trên bản vẽ điện kế, bút điện tử tự động không đi lên, mà là đi xuống và vẽ ra một đồ hình lớn hình răng cưa, loại hình vẽ đồ thị này rất giống với loại đường cong mà đại não của con người trong lúc hưng phấn, cao hứng mà sinh ra!

Một lần, khi ông chuẩn bị đốt cháy chiếc lá và tưởng tượng tình cảnh khi nó bị cháy, thì điều kỳ diệu hơn đã xảy ra: ông còn chưa thực hiện, các biểu đồ trên bản điện tử không ngừng vẽ rất nhanh trên bản điện tử. Rồi ông cầm một que diêm, vừa mới quẹt một đường, trong nháy mắt, vị trí bút điện tử đã lại biển đổi rõ ràng. Que diêm đang cháy còn chưa chạm đến la cây, kim đồng hồ của chiếc máy ghi chép đã lay động dữ dội, thậm chí đường cong ghi lại đều vượt ngoài mép của bản điện tử. Cây ngưu thiệt lan hoa đã xuất hiện biểu hiện sợ hãi kịch liệt. Chưa hết, khi ông giả vờ đốt chiếc lá của cây, bản điện tử lại không thấy có loại phản ứng này. Điều này cho thấy thực vật lại còn có khả năng phân biệt ý đồ thật giả của con người. Hành động giả dối có thể đánh lừa được con người nhưng lại không đánh lừa được thực vật.

Backster và các đồng nghiệp của mình tại các tổ chức khác trên toàn quốc đã thực hiện các thí nghiệm nghiên cứu tương tự bằng cách sử dụng các loại thực vật khác nối với máy dò nói dối, và kết quả quan sát được là giống nhau.

Với những thông tin thu thập được, phát hiện tình cờ của Backster cũng là một thực nghiệm sớm nhất của khoa học gia cho thấy thực vật cũng có cảm tình.

vạn vật hữu linh, thực vật học, thí nghiệm thực vật, nhận thức, cây ngưu thiệt lan hoa, cảm xúc, Bài chọn lọc,

Thí nghiệm thứ: Công năng siêu cảm

Backster từng tiến hành một thí nghiệm như sau: trong ba căn phòng, mỗi phòng ông đặt một cái cây và một thiết bị mới được thiết kế, sau đó nối cái cây với cực của thiết bị điện, ở trước mặt cái cây ông cho tôm biển còn nhảy loạn xạ trong nước sôi, và máy ghi chép kết quả chuẩn xác đến 0,1s. Sau đó, ông khóa cửa lại và không cho bất cứ ai đi vào. Ngày hôm sau, ông đến xem kết quả thí nghiệm, phát hiện ra rằng khi con tôm bị ném vào nước sôi thì sau 6 -7 giây, đồ thị biểu thị hoạt động của cây liền cấp tốc vẽ lên một đường cong. Dựa vào những điều này, Backster cho rằng, cái chết của tôm biển đã dẫn đến phản ứng kịch liệt của cây, đây vốn không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Gần như có thể khẳng định rằng giữa thực vật có thể có sự giao lưu với nhau, hơn nữa, giữa thực vật và sinh vật khác cũng có thể tiến hành trao đổi với nhau.

Tại trường đại học Yale nước Mỹ, Baxter đưa một cái cây và một con nhện cùng đặt trong một căn phòng, rồi đụng vào con nhện khiến nó bò đi. Mọi người đã phát hiện bản điện tử của thiết bị thí nghiệm đã xuất hiện kỳ tích – trước khi con nhện bắt đầu bò đi, thực vật liền đã xuất hiện phản ứng. Rõ ràng, điều này chỉ ra rằng thực vật có công năng siêu cảm nên biết trước được ý đồ hành động của nhện.

Bên cạnh đó khi chuyên viên thẩm vấn quá cố Cleve Backster tiến hành thí nghiệm với các loài cây thực vật, sử dụng máy phát hiện nói dối vào năm 1966, dường như chúng đã biểu lộ các trạng thái cảm xúc khác nhau.

Ông Backster từng là một chuyên viên thẩm vấn sử dụng máy phát hiện nói dối (polygraph/ lie detector) [1] của CIA, người đã phát triển các kỹ thuật phát hiện nói dối vốn vẫn được quân đội và các cơ quan chính phủ Mỹ sử dụng rộng rãi ngày nay. Ông đã tiến hành một thí nghiệm với những cái cây thiết mộc lan (Dracaena), như được miêu tả chi tiết trong cuốn sách “Đời sống bí ẩn của thực vật” (The Secret Life of Plants).

cleve-backster
Ông Cleve Backster bên cạnh các công cụ thí nghiệm của mình: cây thiết mộc lan và máy dò nói dối. (Ảnh: Internet)

Lấy ví dụ, ông đã để hai cây thiết mộc lan gần nhau và nối một trong số chúng với máy dò nói dối. Sau đó, ông đã bảo một học sinh của mình giẫm đạp lên cái cây còn lại. Khi hành vi này được thực hiện, biểu đồ được vẽ ra trên máy phát hiện nói dối đã cho thấy cái cây còn lại đã xuất hiện phản ứng lo sợ.


bieu-do-may-phat-hien-noi-doiMột trong những biểu đồ đo lường phản ứng của thực vật trên máy phát hiện nói dối trong các thí nghiệm của ông Cleve Backster. (Ảnh: Internet)

Marcel Vogel đã tiếp nối các thí nghiệm của ông Backster và cho thấy thực vật dường như cũng có thể bị tác động bởi các suy nghĩ.

Ông Vogel là một nhà khoa học kỳ cựu tại tập đoàn IBM trong vòng 27 năm. Trong suốt khoảng thời gian làm việc tại đây, ông đã được cấp bằng sáng chế cho hơn 100 phát minh. Trong sự nghiệp của mình, ông đã trở nên hứng thú với việc ứng dụng các kiến thức khoa học một cách hữu cơ hơn.

Ông đã đo lường các dòng điện do thực vật phát ra. Ông nhận thấy thực vật đã phản ứng đột ngột khi ông thở gấp và ôm giữ một suy nghĩ trong đầu, so với khi tâm trí của ông tỉnh táo và hít thở nhẹ nhàng.

Dan Willis, người cộng tác nghiên cứu (research associate) trước đó của ông, đã giải thích các thí nghiệm của Vogel trên trang web MarcelVogel.org.

Ông Willis viết: “Phản ứng của thực vật trước các suy nghĩ là tương đương cho dù cách xa khoảng 8 inch, 8 feet hay 8 dặm, như ông Vogel đã thử nghiệm ở Praha, Cộng hòa Séc và ở phòng thí nghiệm của ông ở San Jose, California, Mỹ. [Ở cả hai địa điểm], suy nghĩ của ông đều có thể tác động đến cái cây được nối với một chiếc máy ghi”.

Trong chuyên mục Khoa học huyền bí, Đại Kỷ Nguyên khám phá các nghiên cứu và các sự kiện liên quan tới các hiện tượng và giả thuyết đang thách đố hiểu biết của chúng ta hiện này. Chúng tôi sẽ đào sâu vào những ý tưởng có thể kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng mới. Hãy chia sẻ với chúng tôi suy nghĩ của bạn về những chủ đề có thể gây nhiều tranh luận trong phần bình luận bên dưới.

Chú thích của người dịch:

[1] Polygraphs, thường được nhắc đến là “máy phát hiện nói dối” – lie detector – là một thiết bị ghi lại những phản ứng sinh lý của cơ thể. Không như tên của nó, thiết bị này không phát hiện được ai đang nói dối, nó chỉ phát hiện những hành vi giống-như-khi-đang-nói-dối được thể hiện ra.

Một chiếc máy polygraph đơn thuần là sự tổng hợp của các thiết bị y học dùng để đo dấu hiệu sinh tồn của con người. Khi đối tượng bị hỏi về một vấn đề nào đó, người kiểm tra sẽ theo dõi nhịp tim, huyết áp, nhịp thở và độ dẫn điện của da – electro-dermal activity (cũng là sự tiết mồ hôi, cụ thể trường hợp này là ở đầu ngón tay) so với mức độ bình thường. Sự thay đổi có thể do đối tượng đang nói dối, nhưng kết quả còn phụ thuộc vào người kiểm tra.

Thí nghiệm thứ : Siêu trí nhớ

Để nghiên cứu khả năng lưu giữ ký ức của thực vật, Baxter đã triển khai một thí nghiệm: Để 2 cái cây cạnh nhau trong 1 căn phòng, rồi bảo 1 em học sinh đi vào dẫm đạp một cái cây trước mặt cái cây kia. Sau đó, ông bảo em học sinh này đứng lẫn vào một nhóm các em học sinh mặc quần áo giống nhau, mặt đều đeo mặt nạ, từng người một tiến vào trước cái cây còn sống kia. Đến khi “kẻ phá hoại” đi ngang qua, ngay lập tức thiết bị điện tử phát ra tín hiệu mạnh mẽ, biểu lộ ra sự sợ hãi đối với “kẻ phá hoại”. Thí nghiệm này chứng thực rằng thực vật có ký ức rất mạnh mẽ. Ví dụ, có người từng đem máy dò nói dối kết nối với một cây xương rồng trong chậu, sau đó đem nhổ cây xương rồng, ném xuống đất, rồi lại nhặt cây xương rồng bị ném trồng vào chậu. Đến khi người này vừa tiến gần đến cây xương rồng, kim đồng hồ của máy dò nói dối lập tức rung lên, biểu lộ sự sợ hãi của cây xương rồng đối với người này.

Baxter còn phát hiện rằng, khi thực vật gặp tình huống vô cùng nguy hiểm, sẽ có một loại phản ứng giống như phản xạ vô ý thức của con người. Một ngày, có một nhà tâm lý học người Canada đến xem thử các thí nghiệm trên thực vật của Baxter, cây thứ nhất không có phản ứng, cây thứ 2 cũng không, cây thứ 3 không … đến cây thứ 5 cũng đều không có phản ứng, cho đến cây thứ 6 thì có phản ứng. Baxter hỏi nhà tâm lý học: “Bạn đã từng làm nhiều việc gây tổn thương thực vật đúng không?”. Ông này nói: “Tôi có lúc đã đem sấy khô thực vật để phân tích”. Xem ra thực vật khi gặp vị chuyên gia tâm lý học này đã sợ hãi vị này làm hại chúng, bèn tự khiến bản thân mình hôn mê để tránh khỏi nỗi đau của cái chết. Sau khi vị này đi khỏi, Baxter tiến hành thí nghiệm thì tri giác của các cái cây này lại trở lại bình thường.

Thí nghiệm thứ : Cảm thụ âm nhạc

Trong những năm 1960 của thế kỷ 20, chủ của một vườn ươm ở Anh đã tiến hành một thí nghiệm: trồng các cây hoa thủy tiên, vốn là loài cây ra hoa vào mùa xuân thay thế các loại cây ra hoa khác vào mùa thu. Kết quả phát hiện được, trong nhà kính mà các nhân công luôn luôn dùng một cái máy phát nhạc nhỏ để nghe nhạc trong lúc làm việc, thì tỷ lệ thí nghiệm thành công trong nhà kính này vô tình hơn hẳn các nhà kính khác.

Khi ấy, có người đã tiến hành thí nghiệm để tìm mối liên hệ giữa các loại thực vật và âm thanh khác nhau. Nhà thực vật học Smith dùng cây ngô và đậu nành để làm thí nghiệm. Nhiệt độ, độ ẩm để như nhau cho 2 thùng hạt giống trong vườn ươm. Sau đó để 1 cái thùng 24h nghe bài nhạc Mỹ có tên “Rhapsody in Blue”, còn cái thùng kia để yên tĩnh, một chút âm thanh cũng không có. Kết quả là: hạt giống được nghe nhạc nảy mầm sớm, cuống cũng dày, mà màu xanh cũng đậm. Smith còn đem trồng các hạt mầm loại được nghe nhạc lẫn không nghe nhạc, kết quả là dù ngô hay đậu nành, thì loại được nghe nhạc cho chất lượng tốt hơn. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu tại đại học Ottawa, Canada cho rằng hạt lúa mỳ nếu cho nghe nhạc có tần số 5 kHz thì cây lúa phát triển nhanh hơn.

Năm 1968, một người đàn ông tên là La Reta, là sinh viên ở Denver, Colorado đã đồng thời đưa hỗn hợp các chủng loại cây ngô, cà rốt, rau diếp, bắp cải tím cùng trồng trên một mảnh đất, sau đó hướng đến đó mà phát một bản nhạc piano với giai điệu từ “vui mừng” đến “vỗ về”, 12 giờ 1 ngày. Sau 3 tuần liên tục nghe nhạc như vậy, một số rau bắp cải tím có lớp vỏ bên ngoài đã chết héo, một trong số chúng phát triển tựa như bị gió thổi mạnh ngã về hướng rời xa nguồn âm; còn lại không nghe nhạc thì phát triển bình thường.

Tiếp đó La Reta cùng với giáo viên của anh là Plowman đã tiến hành nghiên cứu, phát hiện ra rằng, thực vật ưa thích nhất là âm nhạc Đông Phương, đặc biệt là nhạc cụ dây Sitar của Ấn Độ, một số thực vật nghe loại nhạc này, có thể tăng tốc độ sinh trưởng lên 2 lần so với bình thường. Tiếp sau là các loại nhạc cụ dây của âm nhạc cổ điển, đặc biệt là thể loại nhạc giao hưởng của Johann Sebastian Bach, Joseph Haydn vốn mang đậm sắc thái tình cảm, lúc đó thực vật sẽ hướng đến nơi phát ra âm thanh mà sinh trưởng. Mặt khác, ngoại trừ nhạc Jazz, thì âm nhạc dân gian hoặc âm nhạc quốc gia phương Tây là dường như hoàn toàn không ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của thực vật. Mà nhạc Swing là loại nhạc khiến cho thực vật chán ghét nhất, vì vậy thực vật sẽ tránh né xa khỏi nơi phát ra âm thanh đó, thậm chí có thể phát triển dị thường.

Ngoài ra, có một nhà khoa học khác đã tiến hành suy xét từ cả 2 phương diện vật lý học và sinh học, ông cho rằng sóng của âm nhạc có lợi cho việc sản sinh protein trong sự sinh trưởng của tế bào,  đồng thời còn tạo nên sự ảnh hưởng tới màu sắc và hương vị của thực vật. Năm 1993, ông dùng cà chua làm thí nghiệm, kết quả là 27% cây tăng trưởng tốt, số quả kết được cũng rất lớn. Nhưng một số cây cà chua xuất hiện hiện tượng hoại tử ở phần gốc, ông cho rằng đây là do âm nhạc “phát sóng quá độ” gây ra.

Những thí nghiệm loại này có rất nhiều, rất nhiều, nước Mỹ, Đức, Nga và các khoa học gia ở các quốc gia khác đã tiến hành nghiên cứu cảm tình của thực vật, không thể liệt kê hết ở đây. Tất nhiên, một số người cho rằng điều này là hoang đường. Tuy nhiên, những sự việc này quả là hiện tượng kỳ diệu khiến chúng ta phải quan tâm tới “người bạn thầm lặng của con người” này. Từ xưa đã có câu nói “vạn vật có linh”, những thí nghiệm trên chính là đang là kiểm chứng quan điểm này.

Kỳ thật mọi người nên nghĩ lại xem: Thực vật trong quá trình tiến hóa dài đằng đẵng mà không ngừng có khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới, phát triển cho đến ngày hôm nay với đa dạng chủng loại, thậm chí còn phổ biến ở những nơi mà con người khó có thể đặt chân tới. Chúng có thể biết khi nào gió thuận lợi mà lan truyền cho các thế hệ tương lai, biết động vật nào là hàng xóm tốt có thể sống trong hòa hợp, có thể biết được thời điểm trùng hợp nào mà không cần đến 1 giây cũng có thể khiến cho hạt nảy mầm. …

Hết thảy những điều này, chẳng lẽ một loại “sinh mệnh” không có bất kỳ trí tuệ cảm xúc có thể làm được hay sao? Thật vậy, những cơ chế phản ứng hiện tại của thực vật khiến các nhà khoa học phải tiến thêm một bước trong công trình nghiên cứu của mình. Nhưng tôi nghĩ rằng, chừng này đã đủ để nhân loại trước nay vốn tự xưng mình là “trí tuệ đứng đầu vạn vật” phải suy nghĩ lại rồi. Chúng ta chỉ là một phần nhỏ bé của thiên nhiên. Chúng ta không thể có một sự giao tiếp trực quan với thực vật, nhưng điều đó không có nghĩa là thực vật không nhận biết được tâm lý của con người. Những bí ẩn trong thiên nhiên mà con người vẫn còn chưa thể giải thích được, e rằng so với suy đoán của chúng ta thì nhiều đến nỗi không biết bao nhiêu mà kể.

Thí nghiệm thứ : Phân biệt thật giả

Trải qua nghiên cứu, các chuyên gia còn phát hiện rằng, thực vật còn có khả năng đặc biệt để phân biệt, có thể nhận biết những hoạt động tâm lý phức tạp của con người, từ đó có thể phân biệt những lời nói dối. Aristide Etherington chủ nhiệm phòng thí nghiệm bệnh viện Rockland của Mỹ và cộng sự của ông là Dowras Dean chuyên gia hóa học của học viện công Newa đã cùng nhau làm một thí nghiệm. Hai vị khoa học gia nối 2 cực của máy lên một cái cây khoai môn, sau đó hỏi người tham gia một loạt các câu hỏi, và nói với người đó rằng, có thể một số câu trả lời không cần phải nói thật. Nhưng thực vật thông qua bản điện tử lại không có … gặp khó khăn gì để nhận ra câu trả lời dối của người tham gia thí nghiệm.

Baxter cũng đã cùng một vị phóng viên đã làm một thí nghiệm tương tự, ông yêu cầu người phóng viên này đứng trước một cái cây bất kể sự thật như thế nào chỉ trả lời phủ định. Baxter bắt đầu hỏi về ngày sinh nhật, liên tiếp đưa ra 7 đáp án ngày tháng, trong đó có 1 cái trùng với sinh nhật của người phóng viên. Mặc dù người phóng viên này trả lời không đúng, nhưng đến khi đọc đến đáp án chính xác, lập tức thực vật đã phát ra tín hiệu phản ứng rõ ràng. Giám đốc nghiên cứu y khoa của một bệnh viện ở New York tên là Strickland Ali Hostetter dựa vào luận văn tiến sỹ này đã làm lại thí nghiệm: Bảo một người đàn ông trả lời sai các câu hỏi được đặt ra, kết quả từ cây bé đến cây lớn, không một cái cây nào chấp nhận câu trả lời của anh ta, đều phản ứng với lời nói dối biểu thị lên bản điện tử.

***************

Có một nghiên cứu phá vỡ các mô hình hiện đại của chúng ta – hé lộ ý thức có tại những nơi mà chúng ta không ngờ tới, và sự kết nối giữa các dạng sống khiến chúng ta cảm thấy sửng sốt và dường như không thể tồn tại.

Hãy tưởng tưởng, bạn đi vào một phòng thí nghiệm với một người bạn, và nhà khoa học bảo các bạn bắt đầu trò chuyện bình thường. Sau một thời gian, nhà khoa học bảo bạn dừng lại và cho bạn thấy một bản thu ghi lại cuộc trò chuyện. Phần âm thanh đúng là của cuộc trò chuyện đó, nhưng phần video là một đường dao động giống như được vẽ lại bởi máy ghi địa chấn. Thực ra, đây là các tín hiệu điện phát ra từ một cái cây đặt ở góc phòng.

Chắc hẳn bạn sẽ rất ngạc nhiên, với mọi khoảnh khắc cảm xúc giữa bạn và người trò chuyện, cái cây đã cho thấy phản ứng tương tự với các cảm xúc của con người, ví dụ như sự ngạc nhiên, chán ghét hay ngại ngùng.

Và các phản ứng ghi lại được giống hệt như phản ứng của con người đối với cùng loại sự việc.

Đây là một chuỗi các thí nghiệm chứng minh hiện tượng được gọi tên “Tri giác Nguyên sinh” của ông Cleve Backster. Ông đã khám phá ra hiện tượng này vào năm 1996 trong một loạt các thí nghiệm với thực vật và các dạng sống khác. Nghiên cứu của ông cho thấy một hình thức giao tiếp cơ bản giữa các dạng sống, từ vi khuẩn tới các tế bào cấu thành các sinh vật lớn, và do đó có thể gọi là “nguyên sinh”, khác với những kiểu tri giác bấy lâu nay vẫn được công nhận, như thị giác hay xúc giác.

doi-song-bi-mat-cua-thuc-vat

Cánh cửa tới Tri giác Nguyên sinh: Cleve Backster bắt đầu thí nghiệm của mình với thực vật thuộc Chi Huyết Giác (Dracaena) (Nguồn ảnh: Cleve Backster)

Backster, một người đàn ông 85 tuổi vui vẻ và nhiệt tình, ông là một cựu chuyên gia phát hiện nói dối của CIA, đã tham gia nghiên cứu chuyên sâu có hệ thống trong lĩnh vực máy dò phát hiện nói dối, lĩnh vưc mà ông đã nhận được những đánh giá cao. Ông đã phát triển các bài kiểm tra So sánh vùng Backster (Backster Zone Comparison) vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, kỹ thuật này vẫn thường được sử dụng trong quân đội và các cơ quan chính phủ để đọc các chỉ số sinh lý. Ông cũng là hiệu trưởng Trường Backster về Phát hiện Nói Dối ở trung tâm thành phố San Diego, California, trong 30 năm cuối đời.

Backster đã phổ biến nghiên cứu của mình trong cuốn sách “Đời sống bí mật của Thực vật” xuất bản năm 1973, dù trước đó ông đã từng công bố phát hiện của mình lần đầu tiên vào năm 1968. Sau khi “Đời sống bí ẩn của Thực vật” được xuất bản, Backster đã xuất hiện trên một vài chương trình đối thoại và các phương tiện truyền thông khác, cũng những cái cây biết nhận thức của mình. Ông cũng thuyết giảng rộng rãi tại nhiều hội thảo khoa học. Nghiên cứu của ông đã khiến mọi người bắt đầu nói chuyện với những cái cây của mình và thúc đẩy hiện tượng “cây trồng trong nhà”.

Không chỉ với thực vật

“Phần hấp dẫn nhất của tất cả những chuyện này”, ông nói, “[những thí nghiệm của tôi] đã bắt đầu với cây cối, nhưng sau đó lại chuyển sang với tế bào của con người. Bằng việc lấy mẫu tế bào người trong ống nghiệm và thử nghiệm từ xa, những tế bào này đã đồng điệu với người hiến tặng, và chúng làm tôi kinh ngạc; ý tôi là điều này có rất nhiều ý nghĩa ở trong đó.”

Thật vậy, Backster đã phát hiện ra rằng, các tế bào của cơ thể phản ứng với những cảm xúc của chúng ta, ngay cả khi chúng ở ngoài cơ thể, thậm chí khi ở cách xa hơn 100 dặm (hơn 160 km). Khi những người hiến tặng tế bào thay đổi cảm xúc, có một phản ứng đồng bộ trên tế bào của họ và thể hiện ra bằng các xung điện.

“Thực vật thực sự chỉ là một sự tình cờ cho phép tôi phát hiện ra hiện tượng này, và sau đó tôi tiếp tục theo đuổi làm thí nghiệm với mọi thứ – những thứ có thể sẽ gây ra phản ứng trên thực vật như vi khuẩn trong sữa chua hay trứng v.v…

Backster thấy rằng việc đập vỡ một quả trứng hay nhúng nó vào nước sôi sẽ gây ra phản ứng trên những cái cây – như thể chúng rất nhạy cảm khi mọi sinh vật gần chúng bị hại. Người ta có thể nghĩ rằng trứng không có sự sống, nhưng dường như chúng có một số loại hoạt động sinh học nào đó.

Backster thấy rằng việc đập vỡ một quả trứng hay nhúng nó vào nước sôi sẽ gây ra phản ứng trên những cái cây – như thể chúng rất nhạy cảm khi mọi sinh vật gần chúng bị hại.

Ngạc nhiên hơn nữa, Backster cũng phát hiện ra, thực vật có phản ứng khi có người dùng phòng tắm ở bên cạnh văn phòng của ông, ông đã lần ngược lại truy tìm nguyên nhân và thấy đó là thời điểm khi nước tiểu sắp tiếp xúc với các viên khử mùi bồn cầu.

“Tôi đã nói, điều gì có thể gây ra phản ứng, thì tự nó cũng phản ứng; để tôi suy nghĩ ra cách giải đáp,” ông nói và cười. “Vì vậy, chính điều này đã dẫn tôi tới điểm mấu chốt”.

Backster đã bước vào nghiên cứu vi khuẩn, tìm kiếm các phản ứng cũng giống như ở thực vật. Ông cũng đã đo các tín hiệu xung điện từ trứng, và cho kết quả là dường như trứng cũng phản ứng lại với môi trường. Sau cùng, ông đã đo hoạt động trong các tế bào của người, chẳng hạn như các tế bào bạch cầu.

 

Cleve Backster đã xuất bản một cuốn sách có tên “Tri giác Nguyên sinh: Giao tiếp sinh học với cây cối, thực phẩm sống và tế bào con người” vào năm 2003, báo cáo tổng hợp toàn diện đầu tiên về nghiên cứu của ông do chính ông biên soạn. Trong sách, ông đã miêu tả chi tiết những điều khác nhau mà ông quan sát dựa trên những đường xung điện từ thực vật, vi khuẩn và trứng cho tới tế bào động vật như máu từ thịt bò, và tế bào người.

“Có rất nhiều ý nghĩa trong những quan sát này, tôi thấy khá bất ngờ sao người ta không bàn luận sôi nổi trong giới khoa học,” ông vừa nói vừa cười.

backster
Cleve Backster tại phòng thí nghiệm của ông ở San Diego, nơi ông nghiên cứu Tri giác Nguyên sinh (Nguồn ảnh: Cleve Backster)

Trong hàng thập kỷ, ông đã đối mặt với những hồi đáp lạnh nhạt từ giới học thuật, dù đã trình bày các bằng chứng tại nhiều hội thảo, và nhiều nhà khoa học trên khắp thế giới đã kiểm nghiệm lại kết quả nghiên cứu của ông. Ông vẫn không bị mất tinh thần – ông tin chắc rằng mình đã tìm ra điều quan trọng. Điểm yếu vốn dĩ của con người là khó chấp nhận những ý tưởng mới, tuy nhiên, ông đã không để cho mình bị khuất phục.

“Và tất cả những điều tôi đã nói trong cuốn sách đều là sự thật,” ông mỉm cười. “Tôi đã rất cẩn thận, mọi thứ trong cuốn sách đều dựa trên thực tế. Tôi không muốn mọi người tìm thấy bất kì chi tiết chuyên môn không chính xác và sau đó kết luận, à, phần còn lại của công trình của ông là không chính xác.”

Ông cũng áp dụng cách thức tương tự khi tìm hiểu lý do vì sao hiện tượng này tồn tại. Để người ta không dễ dàng ném các dữ liệu và nghiên cứu của ông đi, ông tránh sa đà vào việc tạo ra lý thuyết mới mà có thể có sai sót.

Giải thích bằng vật lý lượng tử

Mặc dù Backster không xuất bản nghiên cứu giải thích cho Tri giác Nguyên sinh, nhưng hiện nay, hiện tượng vật lý lượng tử gọi là phi định xứ (nonlocality) là một trong những manh mối đầy hứa hẹn để lý giải về Tri giác Nguyên sinh.

Hiện tượng phi định xứ được dự đoán bởi vật lý lượng tử mà Einstein gọi là “tác động ma quái ở tầm xa” – các hạt ở cách xa đã liên kết với nhau qua không gian bằng cách nào đó.

Trong các thí nghiệm, khi một cặp photon (lượng tử ánh sáng) thoát ra khỏi một nguyên tử bị kích thích, các nhà nghiên cứu thay đổi hướng phân cực của một photon (bằng cách cho nó đi qua một tấm lọc), hướng phân cực của photon còn lại cũng có thay đổi. Thời gian thay đổi diễn ra còn ngắn hơn cả thời gian để ánh sáng truyền giữa 2 hạt.

Khi nào thì các hạt photon thể hiện mối quan hệ này, câu trả lời là khi chúng bị vướng vào nhau (hay gọi là hiện tượng rối/vướng víu lượng tử – ghi chú của người dịch). Vậy hiện tượng phi định xứ này có thể diễn ra trong khoảng cách bao xa? Có phải chỉ xảy ra giữa các hạt nhỏ, hay các hệ thống lớn hơn cũng có hiện tượng vướng lượng tử? Và nếu các dạng sống có thể bị vướng với nhau, thì lúc đó sẽ ra sao?

Nếu hiện tượng phi định xứ mở rộng tới lĩnh vực đời sống và tinh thần, Tri giác Nguyên sinh có thể chính là bằng chứng: Theo những phát hiện của Backster, tín hiệu xuất hiện mà không chịu ảnh hưởng bởi khoảng cách hay vật liệu chắn các sóng điện từ.

Sự đón nhận

Mặc dù công chúng rất hứng thú với các kết quả nghiên cứu của Backster trong những năm 1970, giới khoa học vẫn chưa mặn mà với ý tưởng này lắm. Một nhóm khoa học đã nỗ lực bất thành nhằm làm lại thí nghiệm ban đầu mà Backster công bố, điều này đã được đăng tải trên tạp chí nổi tiếng Science vào năm 1975.

Nhưng theo cuốn sách của Backster, các nhà khoa học (và những người cố tái hiện thí nghiệm nhưng thất bại) đã không xem xét tất cả các tiêu chuẩn so sánh khoa học thích hợp. Có một một tiêu chuẩn đặc biệt quan trọng mà Backster đã phát hiện, đó là nhất thiết không được nhìn kết quả ghi lại từ thực vật (hay những gì mà người ta đang quan sát) trong khi thí nghiệm đang diễn ra, việc quan sát đó sẽ cản trở các phản ứng.

Với một hiện tượng bất thường như Tri giác Nguyên sinh, nếu không tuân theo tất cả các tiêu chuẩn mà thí nghiệm gốc yêu cầu để suy luận, thì sẽ dẫn đến sự bộp chộp.

Tuy nhiên, trong các mô hình nghiên cứu khoa học hiện đại, người ta không cho rằng theo dõi kết quả sẽ gây ảnh hưởng tới kết quả (ở đây là việc kỳ vọng cái cây sẽ có phản ứng khi đang làm thí nghiệm – ghi chú của người dịch). Vì thế khi những thí nghiệm này được làm lại, người ta đã bỏ qua yêu cầu này trong sách của Backster.

Các nhà sinh vật học thường được cho là đặc biệt bảo thủ, một số nhà khoa học nổi tiếng hiện nay hoàn toàn bác bỏ khả năng thực vật có thể phát ra các tín hiệu xung điện, chứ chưa nói đến khả năng nhận thức.

“Khi bạn nói với những người hoài nghi, ý nghĩa của hiện tượng này rất sâu sắc, họ thực sự bị đặt vào một bài kiểm tra xem liệu họ có muốn trở thành một nhà khoa học chân chính và nghiên cứu nó không, hay họ đại khái chỉ muốn tránh xa,” Backster nói.

“Bạn sẽ gặp vấn đề này (bị hoài nghi quyết liệt) với những người ngồi ở vị trí phải bảo vệ hệ thống tri thức khoa học hiện có,” Backster nói tiếp.

Tuy nhiên, ngày nay, sự hiện diện của các tín hiệu xung điện ở thực vật ngày càng được công nhận nhiều hơn. Các nhà khoa học thuộc lĩnh vực thần kinh sinh học đã phát hiện ra thực vật cũng có tín hiệu giống như hoạt động thần kinh ở động vật. Tuy vậy, không giống với những tín hiệu mà Backster đã nghiên cứu.

Mặc dù Backster không sở hữu học hàm Giáo sư, nhưng thái độ và những nghiên cứu của ông đã cho thấy ông có tinh thần khoa học chân chính hơn những nhà khoa học đã bác bỏ công trình của ông.

Những phát hiện đã được kiểm nghiệm lại bởi những nhà khoa học khác, trong đó có các nhà khoa học người Nga, Alexander Dubrov và Marcel Vogel, những người đang làm việc cho IBM tại thời điểm đó, và những nghiên cứu này đã được công bố trong cuốn “Đời sống Bí ẩn của Thực vật”. Tác giả của bài viết này cũng hoàn thành luận án cử nhân về đề tài này, cho thấy những kết quả đáng chú ý về sự nhạy cảm của cây cối đối với tác động của con người.

Truyền cảm hứng cho nhiều người khác làm thí nghiệm

Trong suốt thời gian đó, Backster đã rất nhiệt tình giúp mọi người tự thực hiện các thí nghiệm của họ. Tác giả của bài viết này đã thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn đó, trong phòng thí nghiệm của Backster tại San Diego cũng như trong những thí nghiệm của riêng ông và các băng hình thí nghiệm được thực hiện bởi Backster. Và miễn là các điều kiện khoa học phải được tuân theo đầy đủ, các dấu hiệu sẽ tới.

“Đối với những người muốn tìm hiểu hay làm quen với khả năng tồn tại của Tri giác Nguyên sinh – họ phải để chúng tự phát”

– Backster giải thích.

Backster khuyên nên ghi hình lại những gì đã xảy ra trong phòng với một chiếc camera, và dùng một camera khác ghi hình đường thể hiện xung điện trên thiết bị đo đạc.

“Và sau đó, xem lại đoạn băng thu hình, họ sẽ ngạc nhiên khi nhìn vào sự đồng bộ của những việc diễn ra – miễn là bạn để chúng tự xảy ra.”

Sau khi miêu tả Tri giác Nguyên sinh, Backster hy vọng rằng sự tò mò của con người có thể khiến họ nghiên cứu nó một cách chân thành.

“Đây là một manh mối rất tốt, có kết quả tiềm năng ở đây, còn lại là tùy vào họ có muốn xây dựng một số kiểu thí nghiệm kiểm nghiệm lại hay không”, ông nói.

“Có một sự mâu thuẫn lớn giữa việc để cho mọi thứ tự nhiên xảy ra và việc lặp lại các thí nghiệm,” ông giải thích.

Đa phần khoa học xác nhận sự tồn tại của một hiện tượng mới bằng cách cố gắng rút ra kết luận sau khi thử nghiệm lặp đi lặp lại dưới cùng điều kiện. Nhưng những thứ liên quan tới nhận thức và tinh thần có thể không phù hợp với phương pháp này. Ví dụ, nếu ai đó không cười trong lần thứ tư họ được nghe kể một câu chuyện cười thì không có nghĩa là câu chuyện đó không buồn cười. Vì thế hiện tượng này không thể áp dụng kiểu thí nghiệm lặp đi lặp lại đó được.

“Do vậy, bằng cách này hay cách khác, họ cần phải tiếp cận nó, chứ không phải bào chữa rằng nó không thể chứng minh được,” ông nói.

Tương lai

Ngay bây giờ, Backster đang tìm kiếm một người tiếp tục cầm đuốc cho việc nghiên cứu Tri giác Nguyên sinh, hay ít nhất có thể giúp ông tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu hơn.

“Tôi đã hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu ở đây khoảng 27 năm rồi,” ông cho biết, “nhưng đã đến lúc tôi không thể tự mình làm tất cả mọi việc được.”

“Tôi đã cố gắng góp đủ kinh phí cho ít nhất một phụ tá nữa, bời vì tôi phải lưu tâm tới những thứ này và còn phải tìm cách chi trả cho chúng,” ông cười, “và quản lý việc nghiên cứu, tất cả những việc này là quá nhiều đối với một người.”

Sau 40 năm thiếu nhiều sự ủng hộ cụ thể cho các nỗ lực nghiên cứu của mình, Backster cho biết “đôi khi bạn có cảm giác có rất nhiều nhóm khoa học chính quy hơn chỉ hy vọng rằng bạn sẽ bỏ cuộc, khi quá mệt mỏi hoặc không đủ tài chính… và cứ thế buông xuôi. Nhưng tôi không như vậy,” ông cười và nói.

“Tôi không muốn bỏ cuộc. Tôi chỉ thấy rất bực mình rằng một điều rất hiển nhiên và dễ dàng quan sát như thế lại bị bỏ qua một cách cố ý bởi những người tự xưng là nhà khoa học – điều đó không phù hợp với định nghĩa về nhà khoa học.”

Backster đã bắt đầu gây dựng Quỹ Nghiên cứu Backster vào năm 1965 – một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận nhằm tài trợ hoạt động nghiên cứu của mình. Quỹ hoạt động tốt và tiền tài trợ được miễn thuế. Nhưng quỹ này đã sắp cạn kiệt sau nhiều thập kỷ hoạt động.

“Đây là một việc mang tính cạnh tranh vì nó liên quan tới tiền bạc,” ông giải thích. “Tôi đã diễn thuyết trước nhiều hội đồng khoa học, điều này là quan trọng vì ít ra thì họ cũng sẽ hỏi xem liệu tôi có cần trợ giúp nào hay không!” ông nói.

“Tôi bắt đầu nghĩ rằng mình thật ngây thơ, bởi vì nếu bạn không đi xin tài trợ, bạn sẽ không có được nó,” ông nói. Backster và nhà xuất bản của ông đã xem xét việc xin tài trợ, nhưng việc này trở nên khó khăn khi ông không có mối quan hệ với Viện hàn lâm nào.

Backster cũng hy vọng rằng ông có thể góp sức làm ra một thiết bị cầm tay giá thành phải chăng có thể khuếch đại những tín hiệu này để nhiều người hơn có thể tự thực hiện các thí nghiệm của mình. Ông đặc biệt hy vọng rằng các sinh viên và người trẻ tuổi có thể cầm trên tay chiếc máy đó.

“Tôi nghĩ rất nhiều về những điều mà sau khi được khám phá ra, họ sẽ thấy kinh ngạc”, ông nói.

“Tất cả những vật thể sống đều phát ra những tín hiệu hết sức tinh tế, chúng là những tín hiệu Microvolt. Và bằng cách khuếch đại chúng, sau đó đem so sánh, ghi lại các dấu hiệu trên bản thu hoặc máy tính và những gì diễn ra trong môi trường, tôi nghĩ rằng mọi người sẽ thấy nó rất, rất thú vị.

“Đáng ngạc nhiên là có vô số nguyên nhân và tác động tới tình huống thí nghiệm, trong đó bạn thấy những phản ứng mạnh mẽ và khi bạn nhìn thấy điều gì đã tạo nên phản ứng đó, bạn sẽ thực sự kinh ngạc.”

Thông tin về Quỹ Nghiên cứu Backster có thể tìm thấy tại www.primaryperception.com

Cleve Backster đã qua đời vào ngày 1 tháng 7 năm 2013. Loạt bài này nhằm mục đích tưởng nhớ cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Vũ trụ chứa đầy những điều bí ẩn và thách đố tri thức của nhân loại. Bộ sưu tập những câu chuyện “Khoa học Huyền bí” của Thời báo Đại Kỷ Nguyên về những hiện tượng lạ thường sẽ kích thích trí tưởng tượng của bạn và mở ra những khả năng chưa từng mơ tới. Chúng có thật hay không? Tùy bạn quyết định!

Còn tiếp =>>

<< 1  2 >>

 

Nguồn: Bảo An, dịch từ Epoch Times

Ben Bendig, Epoch Times
Biên dịch: Thu Hiền

:Tara MacIsaac, Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh

Về linh hồn

Lưu ý: Phần chữ nghiêng là phần được trích trong sách sẽ hơi nhỏ và khó nhìn, hãy ấn tổ hợp ctrl và phím + để phóng to trang cho dễ đọc 

Lời nói đầu

Bài viết này của tôi bao gồm việc tóm tắt lại những nội dung chính của 1 cuốn sách khá nổi tiếng và khiến tôi tâm đắc, bên cạnh đó tôi có thể sẽ chia sẻ thêm một vài nội dung khác liên quan đến nó. Đây là một cuốn sách không được phép đăng trên các trang mạng :)) nhưng không quan trọng, tôi muốn mọi người đều có thể biết được những kiến thức ở trong nó. Bên cạnh đó đây chỉ là những tóm tắt thông qua bộ lọc nhận định của tôi nên nó có thể không thực sự sát và chi tiết, các bạn nên mua cuốn sách này về đọc để có cái nhìn chi tiết cụ thể và chính xác hơn và có thể đọc được tận mắt những tường thuật của các đối tượng đã trải nghiệm sự hồi tưởng khi họ còn là linh hồn, và có thể qua đó tìm được ý nghĩa sự tồn tại của chính bản thân.

Bên cạnh đó, theo những kiến thức tôi đã từng thu nhận từ thầy và bạn bè, hay những người có hiểu biết cao hơn, thì tôi nhận định cuốn sách hoàn toàn có thể là sự thực, nhưng chỉ có điều là nó có thể không sát thực vì nó đã qua rất nhiều bộ lọc để đến được tay của các bạn. Đầu tiên là phải kể đến bộ lọc của các đối tượng trong truyện, có nhiều hình ảnh hay cả giác họ khó có thể thực sự miêu tả được, họ chỉ có thể sử dụng 1 hình ảnh ẩn dụ nào đó sát nhất có thể để Tiến sĩ có thể hiểu họ dang nói về điều gì, tiếp theo không ai khác chính là bộ lọc của tác giả cuốn sách, với cách lập luận và thấu hiểu logic của 1 nhà khoa học, nó sẽ có đôi phần lệch so với tâm linh, đây lại là tập sách đầu tiên nói về vấn đề này. Tiếp theo à bộ lọc từ bên biên tập viên, nhà xuất bản nước ngoài, rồi đến bộ lọc từ ngữ của người dịch, rồi lại qua bộ lọc của biên tập viên, nhà xuất bản của Việt Nam 1 lần nữa. Và cuối cùng nếu các bạn đang đọc những dòng này, thì nó còn được thông qua bộ lọc thông tin của chính tôi. Như các bạn thấy, cuốn sách đã phải thông qua rất nhiều cửa để đến với các bạn vậy, mỗi cuộc gặp gỡ 1 cuốn sách , mong các bạn hãy trân trọng và coi nó như 1 cái duyên tiền đị của chính mình

Và tôi mong sẽ có người dịch nốt những cuốn còn lại đồng tác giả 🙂 tôi cũng muốn dịch nhưng có khá là nhiều từ chuyên môn, khó mà lưu loát cho được. Vậy chúng ta bắt đầu nhé:

 

Journey of the Soul

TS MICHAEL NEWTON giữ học vị tiến sĩ về cố vấn tâm lý, là nhà thôi miên có bằng cấp và là thành viên của Hiệp hội Cố vấn Mỹ. Ông là giảng viên trong trường đại học, đồng thời hành nghề tư tại Los Angeles. Qua nhiều năm, tác giả đã đưa hàng trăm người vào thế giới tâm linh. Trong cuốn sách này là 29 trường hợp điển hình trong quá trình được đưa vào trạng thái thôi miên để lột tả những nội dung cần nói đến, nhưng theo tác giả, chỉ 29 trường hợp này vẫn chưa thể kể một cách đầy đủ những kiến thức chúng ta nên hiểu về thế giới tâm linh, và quả đúng là như vậy.

“Những gi bạn sắp đọc sẽ làm lung lay những định kiến của bạn về cái chết”. “Bạn có sợ chết không ? Bạn có tự hỏi điều gì sẽ xảy ra sau khi bạn chết ?”

Có một nghịch lý rằng con người là loài duy nhất trong mọi tạo vật trên Trái đất phải kìm nén nỗi sợ cái chết để sống bình thường. Cuốn sách này là một cuốn nhật ký gần gũi về thế giới linh hồn. Nó trình bày một loạt các trường hợp thể hiện chi tiết, rõ ràng về những gì xảy ra cho chúng ta khi cuộc sống trên Trái Đất kết thúc. Bạn sẽ được dẫn qua các đường hầm tâm linh đến với chính thế giới linh hồn để tìm hiểu về những biến đổi đối với linh hồn trước khi chúng ta trở lại trên trái đất trong một cuộc sống mới . Vậy làm sao có thể chạm được đến linh hồn thông qua thôi miên ? Hãy hình dung trong tâm trí chúng ta có ba lớp vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng nhỏ hơn vòng trước và nằm trong vòng trước, chúng được ngăn cách với nhau chỉ bởi các lớp liên kết tâm trí – ý thức. Đại diện cho lớp ngoài cùng là tâm ý thức, là nguồn gốc cho các phân tích, phê bình. Lớp thứ 2 là tiềm thức, nơi chúng ta đi vào thôi miên để xâm nhập vào bộ nhớ của tất cả những ký ức về những gì đã xảy ra cho chúng ta ở cuộc đời này và những kiếp trước. Lớp thứ 3, lớ cốt lõi sâu kính nhất, là những gì chúng ta gọi là siêu tâm thức. Mức đọ này thể hiện trung tâm cao nhất của bản ngã, nơi chúng ta là biểu hiện của một thế lực cao hơn.

Siêu tâm thức chứa đựng danh tính thật của chúng ta, được nâng lên bởi tiềm thức, nơi chứa đựng ký ức của những bản ngã đã bị biến đổi trong chúng ta qua những thân xác con người các kiếp. Con người trong trạng thái bị thôi miên không mơ ngủ cũng như không bị ảo giác. Khi trả lời câu hỏi, các đối tượng không thể nói dối, nhưng họ có thể giải thích nhầm một số điều được thấy trong vô thức, cũng như chúng ta vẫn thường mắc phải trong trạng thái tỉnh táo. Khi bịt hôi miên, con người khó có thể kể lại bất cứ điều gì mà họ không tin. Có một số khác biệt trong câu chuyện được tường thuật giữa các trường hợp, nhưng đó chủ yếu là do mức độ phát triển của linh hồn nhiều hợn là do sự khác nhau trong việc mỗi đối tượng nhìn nhận về mặt nguyên tắc – thế giới linh hồn như thế nào.

 

Cái chết và sự ra đi

1

Bước đầu của cái chết được mô tả phổ biến bằng việc họ bắt đầu trôi bồng bềnh ra khỏi cơ thể của mình, họ sẽ ngoái lại và thấy cơ thể mình bên dưới cùng những người thân, họ sẽ cố gắng giao tiếp với người thân nhưng hầu như đều không có tác động. Họ cố chạm vào những vật thể rắn bị phi vật chất hóa ngay trước mắt họ. Họ đều có cảm giác bị kéo khỏi nơi họ chết và trải nghiệm một sự thoải mái và tò mò nhiều hơn là sợ hãi. Trải nghiệm này có nhiều nét tương đồng với trải nghiệm ngoài cơ thể vẫn sống(OBE) . Những linh hồn sẽ thường rời cơ thể vật lý của mình vào thời điểm trước khi cái chết thực sự đến, lúc cơ thể họ bị đau đớn khủng khiếp, tuy nhiên linh hồn vẫn ở gần cơ thể họ sau khi đã chết.  Sau cái chết các linh hồn hầu hết sẽ rơi vào trạng thái hoang mang . Tồn tại 1 lực kéo họ về phía một ánh sáng rực rỡ, nó hầu hết được miêu tả là ánh sáng được phát ra từ phía xa và tối dần về phía cơ thể vật lý của các đối tượng, nhiều người cũng thấy cảnh tượng này như là họ đang đi qua 1 đường hầm tối và có ánh sáng như cửa hầm ở phía trước. Khi mới rời cơ thể dù tồn tại lực kéo nhưng các linh hồn vẫn có thể kiểm soát, tự chủ được di chuyển của mình, họ muốn đi theo lực kéo hay ở lại với cơ thể đều do quyết định của họ. Ngược lại với niềm tin của nhiều người, linh hồn thường ít quan tâm đến điều gì xảy ra với thân xác họ một khi đã chết. họ có mong muốn được đi nhanh chóng trên con đường đến với vẻ đẹp của thế giới linh hồn. Tuy nhiên, nhiều linh hồn khác lại muốn được bay lượn xung quanh chỗ họ chết trong một vài ngày, thường đến khi tang lễ của họ được cử hành xong. Thời gian được đẩy nhanh đối với linh hồn, và những ngày trên trái đất có thể chỉ là vài phút với họ.

 

Cánh cửa vào thế giới linh hồn

Các đối tượng nói Hiệu ứng đường hầm mà họ trải qua khi rời khỏi trái đất là cánh cửa vào thế giới lin hồn. Một khi đã đi qua đường hầm, linh hồn chúng ta đã đi qua cổng vào ban đầu trong cuộc hafh trình vào thế giới linh hồn. Đa số hoàn toàn nhận thức được rằng họ không thưc sự chết mà chỉ đơn giản là rời bỏ gánh nặng ủa cơ thể đã chết trên trái đất. Có những linh hồn phát triển cao, những người thoát khỏi cơ thể của họ nhanh đến mức đa số những gì được miêu tả chỉ là cảnh mờ mịt hi họ trở về nhà, về với đích đến tâm linh của họ. Ngay khi bước ra khỏi “đường hầm”, khung cảnh các đối tượng nhìn thấy thường có gam màu sáng, những ánh sáng trắng trong không gian rộng lớn vô tận, những ánh sáng lấp lánh xếp tầng lớp những phi vật chất , cảnh tượng mà có lẽ các tôn giáo gọi đó là thiên đường, trong tác phẩm nó được cho là cõi chung giới . Nhưng cũng có nhiều người sẽ nhìn thấy thêm nhiều hình ảnh như lâu đài băng, cánh đồng hoa, cầu vồng v..v…nó tùy thuộc vào những ấn tượng mà các đối tượng có được khi còn sống trên trái đất. Người ta có khuynh hướng nghĩ rằng tất cả các linh hồn trở nên thông suốt mọi sự khi chết. Điều này không hoàn toàn đúng vì giai đoạn điều chỉnh không phải ai cũng giống ai. Thời gian để linh hồn điều chỉnh phụ thuộc vào hoàn cảnh cái chết, sự gắn bó của mỗi linh hồn cới các ký ức của cuộc đời vừa kết thúc và mức độ phát triển. Bởi vậy mà ngay ở cánh cổng vào thế giới linh hồn, những linh hồn sẽ gặp những người trấn an họ – Người hướng dẫn và ngay cả 1 số linh hồn bạn đời hay bạn bè sẽ đến nghênh đón linh hồn mới trở về.

 

Trở về nhà

Dường như trong mỗi cuộc hội ngộ ở cánh cổng người đầu tiên các linh hồn gặp gỡ đó là “Người hướng dẫn” của họ. Người hướng dẫn là những linh hồn phát triển ở bậc cao hơn, có thể đã từng đầu thai sống với linh hồn đó để giúp đỡ linh hồn thấp hơn, hoặc họ chỉ đơn giản là đứng từ trên và tìm cách chỉ hướng cho các linh hồn đang sống trên trái đất. Những người hướng dẫn cũng có xuất phát điểm như những linh hồn bình thường nhưng họ đã trải qua đủ kiếp để đạt đến một năng lượng nhất định và có thể ngưng chuyển kiếp ( vẫn có những Người hướng dẫn vừa làm công việc hướng dẫn vừa tiếp tục hoàn thành bài học từ các kiếp luân hồi của mình). Bên cạnh đó các linh hồn mới trở về còn có thể gặp đồng thời bạn tâm giao (soulmate) của mình hay những người thân thiết của họ. Số lượng người tùy theo nhận thức của linh hồn, tùy theo nhu cầu được trấn an của linh hồn đó, có những linh hồn phát triển hơn có thể không gặp bất kỳ ai ở giai đoạn này, nên chỉ có người hướng dẫn và đi thẳng đến trạm tiếp theo.

Một điều thú vị về thế giới linh hồn là những người quan trọng trong cuộc sống của chúng ta luôn có thể đón chào chúng ta, ngay cả khi họ đã đang sống cuộc đời khác trong một thân xác mới. Các linh hồn trong giai đoạn này có thể xuất hiện trong những hình dạng tùy thuộc vào người nhìn hay người thể hiện nó. Các linh hồn tự nó là lưỡng tính , nhưng sự thực đó là nam hay nữ sẽ tùy thuộc vào ấn tượng của chính bản thân linh hồn đó như một sở thích cá nhân: “Anh thấy đấy, sự nhận biết phụ thuộc vào…cảm giác của một người khi anh gặp họ ở đây. Họ sẽ cho anh thấy những gì họ muốn anh nhận thấy ở họ và những gì anh muốn nhìn thấy. Điều này cũng phụ thuộc vào hoàn cảnh mà anh gặp họ” . Sự nhận dạng linh hồn thể hiện đối với nhau phụ thuộc vào thời điểm và địa điểm trong thế giới linh hồn cũng như vào tâm trạng, và có lẽ cả trạng thái tâm lý của lh khi họ gặp nhau. Các linh hồn bắt đầu giao tiếp với nhau qua “thần giao cách cảm”, và họ cũng có thể có được những cuộc nói chuyện các nhân người khác không thể nghe thấy bằng cách tiếp xúc bằng xúc chạm. Khi hai linh hồn đến gần để kết hợp với nhau, các đối tượng nói họ có thể gửi những ý nghĩ riêng tư bằng xúc chạm đi qua giữa họ như “xung điện âm thanh”. Trong đa số các trường hợp đối tượng bị thôi miên không muốn nói về những bí mật cá nhân này.

Và một điều tối quan trọng các bạn nên hiểu hình ảnh mà linh hòn tạo ra khong bao giờ che giấu được việc linh hồn đó thực sự là ai đối với tất cả những người còn lại.

Và trước khi đến với phần tiếp theo của cuộc hành trình, chúng ta sẽ cùng đề cập đến những linh hồn ngang bướng chưa thể đi xa đến được với cổng của thế giới linh hồn.

 

Linh hồn bị dời chỗ

Có hai dạng linh hồn bị dời chỗ: Những người không chấp nhận việc cơ thể vật lý của họ đã chết và đấu tranh không trở lại với thế giới linh hồn do nguyên nhân thống khổ cá nhân (Tôi vẫn đang nghĩ liệu mình thuộc trường hợp thứ 1,5 không ? :)) tôi sẽ không hại ai, nhưng tôi thực sự muốn đi xa hơn khỏi trái đất và tìm kiếm 1 vài người), và những linh hồn nổi loạn hoặc đồng lõa với những nhân cách méo mó tội lỗi trong cơ thể con người.Trong trường hợp 1 sự dời chỗ là do chính linh hồn đó lựa chọn, còn trường hợp thứ 2 những người hướng dẫn tâm linh cố ý tách những linh hồn này ra khỏi sự tiếp xúc với những thực thể khác trong khoảng thời gian không xác định

Ở trường hợp đầu tiên thường được gọi là ma hay vong, họ ở lại thay vì quay trở về thế giới linh hồn, họ có ảnh hưởng không tốt đến những linh hồn muốn được kết thúc trong bình yên, đôi khi họ bị quy kết với quỷ. Linh hồn bị xáo trộn là những linh hồn chưa chín chắn với một công việc còn dở dang trong kiếp trước trên trái đất. Như mọi người biết thì có nhiều trường hợp họ bị quy chụp với quỷ, vì họ cũng có thể có khả năng xâm lấn tâm thức của những người hợp với họ ( nhưng theo một vài giả thiết tôi biết được thì vẫn tồn tại một thế lực mạnh hơn những vong hồn bình thường này và chúng có ảnh hưởng đến đời sống con người, chúng được nhận định là “quỷ thực sự”, nhưng đó là 1 thế lực khác biệt hay chỉ là một dạng sai lầm cao hơn khi các vong chuyển hóa , thì vẫn chưa thể khẳng định được) Những linh hồn xâm lấn có thể được thuyết phục rời bỏ và quay lại con đường trở về thế giới linh hồn. Những ma hay vong linh này bị những tiêu cực che mù tâm trí đến nỗi họ từ chối mọi sự khuyên nhủ của người hướng dẫn, họ tiêu cực đến nỗi muốn người hướng dẫn tránh xa họ. Ngoài ra, ma có thể chỉ là một phần nhỏ của năng lượng linh hồn bị rối loạn trong khi phần còn lại đã quay lại thế giới linh hồn để sum họp. ( Điều này cũng đã được thể hiện qua 1 bộ phim năm 2016 I Am the Pretty Thing That Lives in the House – Ngôi nhà bí ẩn http://www.phimmoi.net/phim/ngoi-nha-bi-an-4457/ )   1 phần linh hồn ở lại và 1 phần thì lại hóa kiếp để sống tiếp. Bộ phim khá khó hiểu nhưng tôi đã có phần giải thích ở phần bình luận phim, mọi người xem xong phim có thể đọc bình luận đó để có thể hiểu hơn bố cục của bộ phim)

Ở trường hợp thứ 2, ở trường hợp này đầu tiên bạn nên hiểu, trong con người chúng ta có 2 phần, linh hồn và thể xác, thể xác tôi muốn ám chỉ ở đây là bộ não của chúng ta, chúng ta là những lình hồn cố gắng sử dụng bộ nào một cách tối đa nhất, nhưng bên cạnh đó, bộ não cũng ảnh hưởng ngược lại linh hồn trong quá trình sinh sống và trưởng thành. Bộ não mang tính chất về Gen di truyền, về những đòi hỏi vật lý và sinh lý. Mỗi chúng ta sinh ra đều mang bản chất tốt đẹp của linh hồn, nhưng do tác động từ Gen di truyền và tác động môi trường sống mà gây ra những bạo lực, giết chóc, ham muốn quá lớn, che lấp toàn bộ bản chất linh hồn, khi đó những linh hồn đó do sống quá lâu dưới cái bóng của vật chất mà bị ảnh hưởng theo và trở thành tội ác. Trong truyền thuyết dân gian , cái ác sẽ bị trừng trị hay xuống địa ngục, nhưng thực chất không phải vậy. Không có bất kỳ một sự phán xét nào hết ở thế giới linh hồn, ở đó tất cả đều được cư xử với sự kiên nhẫn và tình yêu, các linh hồn đều được tự do, họ có thể chọn ở lại trái đất hoặc quay về thế giới linh hồn, khi đó người hướng dẫn sẽ đưa họ đến một con đường khác so với những linh hồn bình thường, họ được nhận một chương trình giáo dục riêng tổng quát, nó như một sự chấn chỉnh lại, sau 1 thời gian hồi phục linh hồn đó sẽ tiếp tục đầu hai và chuộc lại lỗi lầm theo cách họ lựa chọn ( nó là tiền đề của luật nhân quả, luật nhân quả không hoàn toàn là một quy tắc ép buộc như chúng ta tưởng, ở thế giới linh hồn, nó là sự ăn năn và mong muốn tự chấn chỉnh, nó cũng như 1 sự tự cân bằng giữa cái xấu và cái tốt, sự sung sướng và khổ đau của bản thân 1 linh hồn, nếu sung sướng yên bình mãi, 1 linh hồn sẽ ko bao giờ phát triển và thụt lùi lại so với bạn bè họ)

23

 

 

Định hướng

Sau khi các thực thể vừa gặp gỡ và chào đón chúng ta trở về đã giải tán, đó là lúc chúng ta sẵn sàng được đưa tới không gian chữa lành, sau đó nữa sẽ là một trạm dừng khác liên quan đến việc định hướng lại linh hồn.

Theo sự kể lại của các đối tượng thì “khoang chữa lành” như không gian khép kín hơn, nơi chứa toàn năng lượng thuần khiết. Khi các đối tượng bước vào trong, một chùm sáng ấm áp vươn tới họ như một dòng năng lượng mềm mại, quận xoáy và chạm vào linh hồn đối tượng như thể nó là một thực thể sống. Nó như gột rửa những nỗi đau của đối tượng trong kiếp sống vừa qua. Sự tác động của “khoang chữa lành” này tác động lên mỗi linh hồn là khác nhau, nó phụ thuộc vào mức độ phát triển của linh hồn.

Sau khi linh hồn đã hồi phục, họ sẽ rời khỏi đó và tới nơi yên tĩnh để nói chuyện với người hướng dẫn của mình. Nơi chữa lành chỉ là khúc dạo đầu cho công đoạn phục hồi những linh hồn mới trở về. Giai đoạn định hướng theo ngay sau đó liên quan đến một khóa tư vấn quan trọng với người hướng dẫn. Công tác định hướng còn được thiết kế như một cuộc phỏng vấn lấy thông tin để giải phóng thêm cảm xúc và khả năng hòa hợp trở lại vào thế giới linh hồn. Hãy nghĩ đến một thực thể nghiêm khắc nhưng ân cần, người hiểu rõ tất cả những thói quen học tập của bạn, người luôn sẵn sàng làm việc cùng bạn chỉ cần bạn vẫn tiếp tục cố gắng. Không một sự trốn tránh hay lừa dối nào tồn tại trong thế giới ngoại cảm hết. Có vô vàn sự khác biệt trong các tình huống định hướng, phụ thuộc vào tính chất của mỗi linh hồn riêng biệt và trạng thái tinh thần của họ sau khi cuộc sống vừa chấm dứt…

Tác giả đã viết : Sau khi kết thúc trường hợp này ( trường hợp 13), tôi không bào giờ thôi ngưỡng mộ sự thẳng thắn đến tàn nhẫn của linh hồn. Khi một linh hồn đã sống một cuộc sống hiệu quả, mang lại lợi ích cho bản thân họ và những người xung quanh, tôi nhận thấy họ trở lại thế giới linh hồn đầy nhiệt tình. Tuy nhiên, khi những đối tượng như trường hợp 13 kể lại rằng họ đã lãng phí kiếp sống vừa qua, nhất là do tự tử sớm, thì họ miêu tả quá trình trở lại với vẻ chán nản hơn.

Linh hồn bản chất tích cực đầy tình yêu thương đến nỗi khi nó bắt đầu tới trái đất đầu thai, bắt đầu gia nhập với cuộc sống vật lý thực sự là một cú sốc lớn, dần hình thành những cảm xúc tiêu cực như giận dữ thù ghét là hệ quả của nỗi sợ hãi và đau đớn gắn liền với bản năng sinh tồn .
Nguyên văn tác giả viết như sau

16990277_397909253902202_1811561136_o

Đoạn tôi đánh dấu là đoạn mà t đặt nghi vấn. Có thể tác giả vẫn chưa tiếp cận đến những mặt vô lý của thuyết tiến hóa Darwin nên vấn viết dưới hiểu biết về sự tiến hóa của con người bắt đầu từ loài khỉ. Hoặc do ý này người dịch hiểu nhầm nên tự dịch theo ý mình? Thực tế trên thế giới hiện tại vẫn còn rất nhiều tranh luận về sự tiến hóa của con người, và hầu như các nhà khoa học và hơn 70% những người tâm linh hoàn toàn phản bác thuyết tiến hóa của Darwin. (Xem chi tiết tại đây, và đây)

Khi đọc sách đôi khi chúng ta sẽ phát hiện ra những vấn đề trái nghịch, vì mỗi chúng ta có 1 điểm nổi trội riêng biệt và những mặt khác thì có thể kém và ít ỏi hơn, điều đó không thể tránh được. Hãy đừng phán xét mà chỉ nghi vấn và lưu giữ lại chờ cơ hội có thể giải đáp được câu hỏi mình nghi vấn ..

to be continued …

Những câu hỏi và trả lời về Tulpa

 

mylyn-ngugen-but-house-needs-a-friend

Về tổng quát

Q: Tulpa hoạt động như thế nào ?

A: Có rất nhiều học thuyết về sự tạo dựng tulpa, cũng như có vô số ghi chép về hiện tượng siêu thường này hoạt động trong tâm trí và lý trí như thế nào. Hiện tại chưa có cách nào thực sự là chính xác nhất để chắc chắn về cách hoạt động của tulpa. Có nhiều học thuyết khác nhau sẽ được nhắc đến xuyên suốt trong topic của forums  cũng như trong những mục dưới đây.

 

Q: Hãy chứng minh về tulpa đi !

A: Tulpa có thể chỉ là một thực thể được chủ thể quan sát dựa trê sự tưởng tượng chủ quan, phía sâu bên trong của tâm trí. Điều duy nhất có thể chứng minh về tulpa là bằng những  thử nghiệm có hệ thống bởi thiết bị quét nào, điện não đồ đắt tiền, thứ mà từ lâu đã xuất hiện ngoài thị trường. Nếu bạn vẫn hoài nghi về những  hiện tượng siêu thường này, bạn có thể quan sát những người đã tạo ra tulpa, thu thập  những phản hồi từ sự thay đổi hay phát triển từ họ và hãy 1 lầ nữa tự suy nghĩ về việc bạn đã thực sự tin về sự tồn tại của tulpa, sau đó hãy tiến tới những ý kiến của bản thân về việc làm thế nào sự tồn tại đó đã và đang hoạt động. Và có một điều rằng, nói chuyện cùng tulpa là chứng cứ thực tế nhất để mà khoảng 100 ngàn người đã cố gắng tạo nên 1 tulpa, và trở nên thực sự tin chắc về cái hiện tượng siêu việt này

 

Q: Tulpa có nguy hiểm không ?

A: No, để trả lời cho điều này. Đầu tiên, là mối quan hệ của bạn với tulpa sẽ vô cùng thân thiết gần gũi. Đơn giản là vì cùng sống trong 1 cái đầu sẽ cho phép bạn thấu hiểu lẫn nhau và chấp nhận nhau dễ dàng hơn. Đó là sự qua lại song phương về lợi ích cho tulpa để có được một sự bền chặt với chủ thể của họ.Trong lựa chọn của phần lớn chủ thể, chủ thể và Tulpa là bạn thân, và nó là mối quan hệ giữa con người với nhau, các vấn đề có thể được giải quyết bằng cách biểu lộ chúng ra. Kể cả khi vấn đề của bạn không thể được giải quyết chỉ thông qua tranh luận ( hoặc những cách giải quyết tương tự vậy), Tulpa sẽ không thể khống chế cơ thể của bạn một cách dễ dàng nếu không có sự đồng ý của bạn, và nếu tất cả mọi nỗ lực đều thất bại, thì bạn vẫn có thể học cách xóa bỏ tulpa bằng sự quên lãng. Tulpa sẽ không thể làm hại bạn thông qua các tác động vật lý, kể cả khí trong một vài trường hợp tương tự vậy họ thực sự muốn điều đó. Tulpa cũng chỉ giống như 1 con người, bạn có thể giải quyết mọi cuộc tranh chấp như bạn làm với 1 người bình thường. Bạn không nên bỏ cuộc chỉ sau những bất đồng hay tranh cãi; thay vào đó bạn nên làm những điều tốt đẹp nhất có thể để cùng có những thấu hiểu đúng đắn lại 1 lần nữa.

 

Q: Nó có khác với các chứng Rối loạn đa nhân cách(ma ám)/Đa nhân cách/tâm thần phân liệt ? (DID/MPD/Schizophrenia)

A: Trạng thái rối loạn tâm thần được nêu trên thường được gây nên bởi sự di truyền, hoặc bởi những trải nghiệm gây chấn thương cho dối tượng. Con người với những  trạng thái rối loạn sẽ khó lựa chọn và kiểm soát các triệu chứng của họ. Đôi khi bệnh nhân sẽ bất tỉnh, và tâm trí họ sẽ bị kiểm soát bởi 1 tính cách khác, mà không có chủ thể dảm nhiệm sự kiểm soát điều khiển trong suốt quá trình hoạt động. Những điều trên không xảy ra với người sử dụng tulpa. Bạn có thể lựa chọn giữa lắng nghe tulpa hay bỏ mặc họ, Và bạn cũng sẽ không bất tỉnh nếu bạn không cho họ quyền kiểm soát cơ thể mình. Điều đó có nghĩa là bạn nắm trong tay sự kiểm soát lớn nhất , thứ mà bạn dùng để xây dựng nên tulpa của bạn. Bạn chắc chắn có thể kiểm soát sự tồn tại hay không tồn tại của một nhân cách mà bạn chú ý đến bạn cũng có thể tự tận hưởng sự tác động của chúng. Các hội chứng rối loạn nhân cách gây hại cho chủ thể, và làm ảnh hưởng đến các chức năng nhiệm vụ của cá nhân bạn; tuy nhiên, tulpa đa số lại khá lành và mang tính chủ quan. Nếu bạn đến gần hơn với hiện tượng siêu việt này một cách đúng đắn, tulpa có thể cải thiện cuộc sống của bạn, bởi sự đồng hành cũng như tình bạn của họ dành cho bạn.

(Phần giải thích thêm của Kurosu:

DID – Đa nhân cách, được hiểu như 1 dạng ma ám link: https://vietpsy.wordpress.com/2012/03/30/tim-hieu-ve-trieu-chung-roi-loan-nhan/

MPD – Rối loạn đa nhân cách: http://www.honnhangiadinh.com.vn/bai-viet/Roi-Loan-Da-Nhan-Cach–MPD-507.html

 Tâm thần phân liệt: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2m_th%E1%BA%A7n_ph%C3%A2n_li%E1%BB%87t

http://diendan.songkhoe.vn/chi-tiet-trieu-chung-cua-benh-tam-than-phan-liet-s2962-703-418822.html  )

 

Q: Đó có phải là ma thuật ?

A: Không, nó là sự cố gắng tương tác để đến gần hơn với hiện tượng siêu việt tulpa dưới một logic nào đó, theo hướng cơ bản của tâm lý học . Chúng ta không cố giải thích tulpa theo hướng của ma thuật, hoặc sự huyền bí.

 

tulpa_10_by_ulwik-d5apl1o

Những lo lắng

Q: Có thực sự là tôi đã có 1 tulpa ? Tôi luôn nói chuyện với 1 người bạn tưởng tượng hay đó là nhân vật, và nghĩ rằng có thể họ là tulpa ?

A: Đây thực sự là một tình trạng chung về những sự hiện diện phi thực tế trong cộng đồng hiện tại. Nhìn như sự biểu hiện của tulpa thông qua sự tập trung chú ý, họ mang một khả năng rõ ràng khi ai đó sử dụng thực nhiều thời gian để suy nghĩ về nhân vật đó, hoặc chỉ đơn giản là tiếp tục nói chuyện với người bạn tưởng tượng đó. Nếu bạn nghĩ rằng bạn đang có một điều gì đó giống như vậy, hãy nhìn thật kỹ càng vào họ và tự hỏi chính bản thân mình:  Họ có thực sự độc lập với bạn , có thể thực hiện những điều mà họ muốn? Thỉnh thoảng họ có làm bạn ngạc nhiên? Họ có cho bạn cảm giác thực sự như 1 người nào khác, hay đó chỉ là một nhân vật ? Nếu bạn trả lời “có” cho 1 hay nhiều hơn những câu hỏi,  thì nhân vật của bạn nên được miêu tả như 1 tulpa. Tất nhiên, họ có lẽ chưa thực sự thể hiện hết ra hoặc chưa thực sự độc lập. Nếu bạn quyết định họ là tulpa từ lúc này, và làm việc trên sự thể hiện của họ và học cách để tương tác với họ rõ ràng hơn, họ có thể trở thành 1 tulpa độc lập thực sự.

 

Q: 1 tulpa có thể làm những gì ?

A: Như 1 hệ thống quy tắc, tulpa có thể thực hiện được mọi thứ mà chủ thể có thể làm đươc, và không có gì nhiều. Tulpas là con người như bạn và tôi, và sẽ có những khả năng và nhược diểm tương tự như 1 con người. Tuy nhiên, tồn sự khác biệt giữa sinh vật tự nhiên và tulpa, Chủ thể có lẽ bẩm sinh có được sự chủ động trong thời gian làm một điều gì đó ( như là điều khiển cơ thể), trong khi đó tulpa có lẽ bẩm sinh là sự dễ dàng thực hiện những thứ mà chủ thể không thể thực hiện , ngoại trừ những người có luyện tập. ( như là hoàn toàn để bản thân chìm trong wonderland).

 

Q: Vậy tulpa có thể giúp đỡ tôi (như gợi nhớ quá khứ hay trong trường hợp)?

A: Nó hoàn toàn là có thể, Nhưng hầu hết những gì tulpa có thể mang đến sẽ chỉ là những chi tiết vụn vặt bằng cách cố thử đưa ra những hướng dẫn cho bạn trong  những lĩnh vực bạn đang cố gắng cải thiện. Đặc biệt đúng trong việc gọi nhớ và cũng như là những nhiệm vụ liên quan đến trí tuệ. Và kể cả khi tulpa của bạn có khả năng giúp bạn, nó không có nghĩa là họ sẽ làm; bạn không nên tạo nên họ một cách quá hoàn hảo và biến họ thành một cái bảng ghi chép hay là 1 cái máy tính thông minh đa chức năng.

 

Q: Những hạn chế của tulpa là gì?

A: Tulpa được thể hiện thông qua bản chất của chủ thể và niềm tin của chủ thể. Chủ thể có thể chủ động quyết định những quyền hay hạn chế tulpa trên nhiều mặt khác nhau. Ví dụ, chủ thể có thể chọn có hay không việc tulpa có thể nghe được suy nghĩ trong tâm trí của chủ thể, hoặc ngay cả việc truy cập vào quá khứ cra chủ thể. Dù có nhận ra hay không, bạn đã vô thức có được những niềm tin về tulpa thông qua cuộc sống hàng ngày hay thông qua những gì bạn thấy được, đọc được từ tulpas. Đó là lý do tại sao nó trở nên quan trọng để khiến tất cả mọi nghi ngờ đều trở nên vô hình, và chủ động trng việc nghĩ về những gì tốt hay xấu đối với bạn. Nếu bạn tìm ra được hạn chế của niềm tiên, hãy cố để hợp lý hóa nó như cách mà bạn tìm ra nó, và hãy biết rằng sự hạn chế trong niềm tin là lý do duy nhất cho câu hỏi này.

 

Q: Nếu tôi có một tâm trí bệnh tật, thì tôi có thể có một tulpa hay không ?

A: Trong hầu hết các trường hợp, bạn sẽ ổn thôi. Chúng tôi vẫn chưa tìm ra chứng cứ cho việc tâm trí bệnh tật  là điều hạn chế khả năng sáng tạo mọt tulpa. Trong một số trường hợp, tâm trí bệnh tật  sẽ được trợ giúp bởi sự sáng tạo và sự hiện diện của tulpa .

 

Q: Thời gian sáng tạo dài là tốt hay xấu ?

A: Tulpa được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau, và quá trình sáng tạo của mỗi người là khác nhau.Sẽ không có gì là sai với việc tiếp tục giữ xu hướng về việc bạn sử dụng bao nhiêu thời gian cho việc tập trung sáng tạo, và nó vẫn có thể trở thành lợi ích để lưu nhớ những ghi chú về tất cả những gì bạn làm, trên con đường tiến đến phô bày tulpa của bạn. Chỉ là đừng so sánh thời gian tiến độ của bản thân với người khác; hãy đơn giản nó và làm những việc bạn cần làm ở không gian của riêng bạn, không cần quan tâm đến bát cứ ai hết.

 

true-friends-are-hard-to-come-by

 

Sự sáng tạo
Q: Phải cần bao nhiêu thời gian để có thể tạo ra 1 tulpa?
A: Để họ có thể có được tiếng nói riêng, thường khoảng vài tuần hoặc vài tháng. Một vài người, đặc biệt là những người đã có kinh nghiệm trong đóng vai hoặc viết nhân vật, có thể dễ dàng tiếp cận được cột mốc “tiếng nói” dễ dàng hơn người bình thường. Nhưng  hãy nhớ rằng, bạn vẫn chưa thể hoàn thành kể cả khi chạm được đến với cột mốc trên; Vẫn còn rất nhiều khía cạnh cho tulpa có thể tiếp tục phát triển những đặc tính con người của mình. Bạn luôn luôn có thể mài dũa  khả năng của bản thân để có thể cảm nhạn, nghe thấy được họ, và học cách nâng cao những năng lực như sự áp đặt hay chuyển đổi. Ban đầu 1 tulpa trẻ dẽ hoàn toàn phụ thuộc vào chủ thể của họ. nhưng qua thời gian, họ sẽ trở nên bớt phụ thuộc hơn và sẽ trưởng thành dần lên như 1 con người.

 

Q: Làm sao để tôi có thể biết được tulpa của mình có tri giác ?

A: Điều đó là không thể để chứng minh ciệc tulpa có hay không đang trên con đường phát triển có tri giác, nó giống như là không thể chứng minh rằng một cong người khác là thứ gì ? ( được dựa trên thuyết duy ngã: Theo định nghĩa của từ điển, thuyết duy ngã là một luận thuyết triết học cho rằng con người ta chẳng thể biết được gì ngoài việc mình đang hiện hữu, và bản ngã là cái hiện hữu duy nhất. Theo lối nói thông thường, thuyết duy ngã nói rằng bạn tin bạn là cái có thực duy nhất. Nói một cách cực đoan về thuyết cái tôi-trung tâm) Tất cả những gì bạn cần làm là quan sát các hành vi của người đó mọi lúc mọi nơi. Như cách mà họ lớn lên mỗi ngày, họ sẽ thể hiện nhiều hành vi độc lập, những hành vi thông minh. Sau đó, bạn sẽ  có đủ được bằng chứng để quyết định xem liệu tulpa của bạn là có tri giác hay không. Nếu bạn vẫn không chắc chắn, thì bạn nên chờ, dành nhiều thời gian cho họ hơn, và tiếp tục quan sát. Đó là cách tốt nhất để biết về điều này mà không phải phán xét, chỉ quan sát và tư duy. Sự lo lắng của bạn là không cần thiết.

 

Q: Tôi có thể thực hiện quá trình phát triển tulpa theo cách khác không ?

A: Chắc chắn rồi. Nó là có thể, và chắc chắn là nso vẫn sẽ thú vị hơn nhiều khi làm mọi thứ với một cách khác của riêng bạn để xây dựng nên 1 tulpa. Bạn có thể luyện tập cách tưởng tượng, thuật lại mọi thứ cho họ, tác động vào các đặc tính; nó không có bất kỳ vấn đề nào hết. Tất cả để có thể thay thế cho nau mà vẫn giúp tulpa được xây dựng, và cùng phát triển hoàn thiện với nhau. Hãy tử tự tìm kiếm những cách làm việc tốt nhất đối với bạn.

 

Q: Tôi có thể thuật lại mọi thứ của mình cho tulpa ?

A: Thuật lại có nghĩa là trò chuyện với tulpa. Nó có thể là bất cứ điều gì mà bạn muốn, và theo bất cứ cách nào mà bạn muốn. Nó sẽ hiệu quả hơn khi nghĩ về tulpa và cảm nhận sự hiện dieejnc ủa tulpa khi bạn nói chuyện với họ, và nó cũng có thể giúp bạn định hướng ngôn ngữ hoặc những suy nghĩ đối với tulpa trong tâm trí của bạn. Hãy nhớ rằng, bạn có thể nói về tất cả mọi thứ, tích cực hay tiêu cực, và bạn có thể ba hoa tất cả mọi thứ với tulpa của bạn. Bạn có thể làm điều đó khi đang làm bất khì việc nào đó khác, và số lượng thới gian nói sẽ mang tính quan trọng hơn là chất lượng bạn đã nói những gì J) .

 

Q: Tôi nên nói chuyện với tulpa thành tiếng hay cỉ nói thầm trong đầu?

A: Bạn có thể giao tiếp với tulpa theo bất cứ cách nào mà bạn muốn. Vài người sẽ thấy dễ tập trung vào cuộc trò chuyện hơn khi họ nói ra thành tiếng. Vài người lại thấy tốt hơn khi họ  nói thầm trong đầu. Hãy thử cả hai, và nghĩ xem bạn thấy thích cách nào hơn; đó là một điều khác là quan trọng.

 

Q: Có phải là đưa nhiều chi tiết vào tulpa sẽ giúp hạn chế sự đi chệch hướng ?

A: Không. Có phải bạn đang thấy mơ hồ hay do có quá nhiều chi tiết trong quá trình miêu tả ban đầu cũng như lên kế hoạch dành cho tulpa, theo thời gian, họ sẽ lớn lên theo cách của họ – trở thành sinh vật suy nhất. Họ chắc chắn sẽ giữ lại vài đặc điểm mà bạn tặng cho họ lúc bạn đầu, nhưng bạn không thể lấy nó ra so sánh để chỉ dạy 1 đứa trẻ. Bạn có thể muốn đứa trẻ của mình lựa chọn con đường của nó, hoặc trở thành 1 bác sĩ và lên 1 vài gợi ý cho chúng, Nhưng nếu chúng muốn chuyển hướng theo điều gì đó trong quá trình phát triển, thì bạn không nên ngăn cắm và quyết định thay họ. Bạn có thể chọn nhiều thứ cho tulpa và lên gợi ý cơ bản cho họ, nhưng cuối cùng, họ vẫn sẽ có tự do để tự lựa chọn cho chính mình, và lớn lên theo cách mà họ muốn.

 

Q: Tôi bị đau đầu, đầu như muốn nổ tung, đau nhức mắt và bị phân tán khi đang trong quá trình xây dựng, có phải điều đó rất tệ ?

A: Một vài người sẽ có triệu chứng sock như vậy, những người còn lại thì không bao giờ bị. Nếu nó llại bắt đầu làm phiền bạn, hãy  ngưng tập trung và thư giãn một chút. Chúng sẽ không gây hại đến bạn.

 

Q: Tôi có cần phải ngồi thiền ?

A: Nó không bắt buộc, nhưng nó sẽ thường hỗ trợ bạn rất nhiều trong  mọi thứ. Ngồi thiền sẽ dạy cho bạn cách tập trung trong khoảng thời gian dài, và sẽ thường giúp bạn cải thiện cách suy xét/tư duy về cuộc sống trong nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm cả tulpa.

 

Q: Liệu có ổn không khi hướng tulpa theo một nền tảng nhân vật có sẵn ?

A: Nó hoàn toàn ổn. Bạn nên cho tulpa 1 form đặc điểm và cố cho họ có được một nhân cách tương đương, nhưng cả bạn và họ nên nhận ra rằng họ tự thuộc về bản thân. Như nhiều tulpa khác, họ sẽ thay đổi và thể hiện qua thời gian trở nên mang tính cá nhân hơn, có thể đến cuối cùng sẽ trở nên khá khác biệt so với nhân vật ban đầu bạn cho họ.

 

 

imaginary-friends-13

Sự tưởng tượng

 

Q: Tôi đang có rắc rối về sự tưởng tượng, tôi phải làm gì đây ?

A: Sự mường tượng là một kar năng  như bất kỳ khả năng nào khác, chúng ta có thể cải thiện thông qua luyện tập. Sự tưởng tượng  tích cực không phải là tất cả trong việc taoj lập tulpa, nên không cần quá lo lắng về điều đó. Tất cả những gì mà bạn cần phải làm là dành thêm sự cố gắng để cải thiện, nếu như bạn thực sự muốn có khả năng tưởng tượng tốt hơn. Cố gắng luyện tập tưởng tượng ngoài thời gian bạn tập trung cho tulpa, bằng cách tưởng tượng ra hình ảnh của tulpa, hay bất cứ điều gì mà bạn muốn. Bất kỳ lúc nào bạn dành thời gian luyện tập cũng sẽ góp phần giúp sự tựng tượng tốt lên mỗi ngày. Có các cách và mẹo khác nhau để cải thiện sự tưởng tượng, bạn có thể tìm thấy trong forums, nếu bạn muốn có được lời khuyên để cải thiện nó.

 

Q: Tôi có thể tạo ra 1 hình dáng cho tulpa không ?

A: Bạn có thể, nhưng bạn cũng có thể nói chuyện với tulpa mà khồn cần bất cứ một hình thể nào hết và để họ tự quyết định hình dáng mà họ muốn, khi mà họ đã có được khả năng tự định đoạt. Không quan trọng việc bạn đi trên con đường nào; tất cả lựa chọn đều tốt. Nếu bạn không thể lựa chọn, thì hãy để trống nó, như việc hình thể có thể thay đổi theo ý muốn của cả hai bên.

 

Q: Wonderland là gì ?

A: Wonderland là từ chỉ môi trường trong tâm trí, Đó là nơi mà cả chủ thể lẫn tulpa có thể cùng tương tác thông qua hình ảnh, mà không cần đến việc chủ thể cố đặt tulpa vào môi trường vật lý thực tế. Wonderland có thể thay đổi thời gian, lặp lại thời gian, Mặc dù nó có thể thay đổi theo ý muốn của riêng bạn, nhưng cũng có thể thay đổi theo ý muốn của tulpa, hay đơn giản chỉ là sự vô thức ko điều khiển. Nó có thể nhỏ chỉ như một cái phòng đơn, hay rộng lớn như 1 mảng vũ trụ, hay chỉ là 1 từ “ không có gì hết”. Bạn có thể xấy nên nó bằng những tưởng tượng đơn giản bất kỳ không gian nào bạn muốn, và đi sâu vào mọi khía cạnh của nó như từng chi tiết nhỏ, nếu bạn muốn. Và nó cũng không bắt buộc là phải có Wonderland khi tạo tulpa.

 

Q: Tôi có thể lợi dụng một thứ nào khác như tulpa ?

A: Được chứ. Sự lợi dụng chỉ như việc học cách gợi nhớ sự tưởng tượng (thường sẽ là tulpa của bạn) và khi mà bạn học được khả năng này bạn có thể áp dụng nó vào bất cứ tứ gì mà bạn chọn. ( Giải thích lại trường hợp này , nó nói đến việc dùng vật để gọi hình, ví dụ bạn dùng con gấu bông, bạn cho nó 1 linh hồn và bạn coi nó như một người bạn trò chuyện mỗi ngày, dần dần nó sẽ lớn lên như 1 tulpa, và tự tạo cho mình một hình thể và giọng nói để tương tác với bạn, đôi khi không cần phải mang theo gấu bông thì tulpa đó vẫn có thể đi theo bạn như 1 người bạn độc lập. Lợi dụng khả năng này, các bạn có thể sử dụng một đồ vặt nhỏ nào đó mà bạn luôn mang bên mình, hãy gắn linh hồn tulpa vào bên trong vật thể đó, để bất cứ khi nào nhìn thấy đồ vặt bạn cũng có thể nhớ đén tulpa của mình, nó giúp tăng cường độ tương tác giữa hai người, và giúp việc tạo tulpa dễ dàng hơn sơ với việc tưởng tượng chay.)

imaginary-friend-pictures

 

Mở rộng về sự phát triển

 

Q: Có phải là tulpa sẽ trưởng thành theo thời gian ?

A: Đúng. Họ không phải vật chất tĩnh và họ sẽ có xu hướng thay đổi theo thời gian. Sự lớn lên ban đầu của họ sẽ nhanh hơn 1 đứa trẻ bình thường, nhưng cuối cùng họ vẫn sẽ đến được cột mốc của sự trưởng thành, đến lúc đó họ sẽ thể hiện ra và phát triểntheo tốc độ giống như 1 người bình thường khác.

 

Q: Tôi phải làm sao để có thể khiến tulpa để cho tôi yên ?

A: Bạn đã thử nói chuyện một cách than thiện chưa ? Nếu bạn nói rõ về việc họ làm bạn mất tập trung hoặc làm bạn buồn phiền, thì họ thường sẽ vui vẻ chấp nhận để bạn yên. Hãy suy nghĩ về việc dành cho họ nhiều sự chú ý hơn khi bạn có thời gian.

 

Q: Tôi chưa từng nghe/thấy/cảm nhận tulpa của tôi trong bất kỳ ngày nào; tôi đã làm sai điều gì ?

A: Không sai gì hết. Đó là biểu hiện rõ ràng chung của tulpa, trốn tránh phía sau tâm trí chủ thể trong 1 thời gian dài, hoặc vì 1 vài lý do nào đó. Nó không hoàn toàn có nghĩa là bạn đã làm sai gì đó, Và hầu hết thì không cần thiết phải lo lắng về điều này. Hãy dành cho nó một khoảng thời gian, và tiếp tục theo dõi họ. Cuối cùng chắc chắn họ sẽ xuất hiện.

 

Q: Bạn có thể có nhiều mối quan hệ phức tạp hơn với nhiều tulpa ?
A
: Có, Nhiều chủ thể có nhiều hơn 1 tulpa. Những tulpa mới có thể được tạo bởi chủ thể hoặc ngay từ 1 tulpa trước đó vào bất kỳ thời điểm nào; và nó sẽ thường dễ dàng hơn sơ với lần tạo đầu tiên. Bạn có thể có nhiều tulpa hoạt động như 1 điểm xác định, và cho họ ảnh hưởng lẫn nhau như cách mà bạn xâu dựng 1 tulpa duy nhất.

 

Q: Tôi có một câu hỏi không được nhắc đến ở FAQ này, tôi phải tìm kiếm câu trả lời ở đâu?

A: Hãy tìm kiếm  Questions and Answers board on the forums; Câu hỏi của bạn sẽ được trả lời tại đây. Nếu bạn vẫn chưa có được câu trả lời thỏa mãn, hãy bắt đầu 1 topic và hỏi lại. Có thể là  official Tulpa.info chat , nơi mà bạn có thể nhận được câu trả lời từ ai đó, nhanh hơn.

<< 1 2 3 4 5 6 7 8 9 >>

Blog tại WordPress.com.

Up ↑